Thứ Tư, 27 tháng 5, 2020

NGƯỜI THÔNG MINH: 3 KHÔNG QUẢN, 4 KHÔNG NÓI, 5 KHÔNG GIÚP 3. KHÔNG QUẢN

NGƯỜI THÔNG MINH:
3 KHÔNG QUẢN, 4 KHÔNG NÓI, 5 KHÔNG GIÚP
3. KHÔNG QUẢN
👉 Không quản chuyện bao đồng
Làm người, quý ở chỗ biết nên dừng ở đâu và lúc nào
Không quản chuyện không đâu, không phải là lạnh lùng, mà là một kiểu chừng mực
Bớt quản chuyện của bạn bè, tôn trọng lựa chọn của họ, là đang cho tình bạn không gian để bền lâu
Bớt quản chuyện của người khác, tránh xa cuộc sống của người khác, có như vậy mỗi người mới có thể thể hiện được cá tính bản thân
Bớt quản chuyện của người thân, chỉ khi có những không gian nhất định giữa những người thân thì gia đình mới thực sự hòa hợp
Dành cho nhau một khoảng không nhất định, mới có thể giữ được trạng thái quan hệ thoải mái nhất
Quan tâm trăm chuyện bao đồng nhà người khác, chi bằng làm tốt một chuyện của mình
Đọc nhiều sách mở mang kiến thức, bớt quản chuyện bao đồng dưỡng tinh thần
Đây mới là trí tuệ trong đối nhân xử thế.
👉 Không quản chuyện tình cảm người ta
Không làm bà mai mối, không làm người bảo lãnh, cả đời không phiền não.
Làm người ở giữa cho chuyện tình cảm của người khác là chuyện không dễ dàng nhất
Hôm nay hai người chia tay, hôm sau lại làm hòa
Khuyên hòa khuyên chia, đều là bạn không phải
Vì vậy, gặp chuyện tình cảm của người khác, tốt nhất là không nên tham dự.
👉 Không quản việc nhà người khác
Cổ ngữ nói: "thanh quan bán đoạn gia vụ sư", ý muốn nói, chuyện gia đình là chuyện vô cùng phức tạp, đến cả quan thanh liêm cũng khó lòng phân định
Lưỡi với răng còn có lúc đánh nhau, người một nhà ở với nhau, thìa không tránh đụng phải mép nồi
Những chuyện tế nhị như vậy, ngay cả người nhà còn chưa chắc đã nói rõ được với nhau, một người ngoài thì liệu biết được cái gì?
Huống hồ, người thân với nhau, không chỉ nói lý mà còn nói cả tình. Đây không phải là chuyện một người ngoài nên nhúng tay vào
Vì vậy, đừng quản chuyện nhà người khác, chúng ta không có cái quyền hạn này, cũng chẳng có đủ năng lực.
4. KHÔNG NÓI
👉 Không nói điều xấu
Miệng là cái rìu, lời nói là con dao, không nên cái gì cũng nói toẹt ra hết, giữ lại cho mình chút khẩu đức
Đừng công kích điểm yếu của người khác, sát muối vào vết thương của người ta. Người thích sát muối vào vết thương người khác, chỉ khiến người khác ghét mình hơn, hại người hại mình.
Con người sống trên đời dựa vào hai chữ "tôn trọng" để đứng vững trong xã hội. Con người sống ai cũng có thể diện, ai cũng có tôn nghiêm, ai chẳng ưa sĩ diện, vì vậy, đừng chọc vào điểm yếu của người khác hay nói xấu sau lưng người ta.
👉 Không nói lời ngông cuồng
Người tài còn có người giỏi hơn, núi cao còn có núi cao hơn
Bạn vĩnh viễn không bao giờ biết được người khác tài giỏi, mạnh mẽ ra sao
Bạn có thể tự hào về mình, nhưng tuyệt đối không được ngạo mạn
Phần lớn thất bại đời người đều tới từ hai chữ: một là "lười", hai là "ngạo".
Người thích nói lời ngông cuồng, ngạo mạn, tầm nhìn sẽ trở nên hẹp hơn, không biết thế nào là trời cao đất dày
Trông thì tưởng đang nhe nanh duỗi móng, nhưng thực ra chỉ là một con hổ giấy
👉 Không nói lời oán than, ca thán
Cuộc sống chưa bao giờ là dễ dàng, mỗi người đều mang trên vai những gánh nặng khác nhau để tiến về phía trước.
Ca thán không giải quyết được bất cứ vấn đề gì, chỉ truyền đi năng lượng tiêu cực.
Phàn nàn nhiều, bạn bè tự dưng sẽ ít lại.
Đừng trở thành người truyền đi năng lượng tiêu cực, chẳng ai thích cả ngày phải đối mặt với một người suốt ngày ủ rũ, khó ở.
Gặp vấn đề, trước tiên hãy tìm lý do từ bản thân mình.
Sống ở đời, thay vì ca thán một ngày, chi bằng nỗ lực một ngày.
Có sức ngồi đó ca thán, chi bằng để dành sức đi nỗ lực, cố gắng.
👉 Không nói lời vô nghĩa
Tử Cầm hỏi thầy mình là Mặc Tử, nói nhiều liệu có gì tốt.
Mặc Tử nói: "Ếch, muỗi kêu suốt ngày suốt đêm, kêu đến cháy cổ khát họng, rồi ai sẽ nghe chúng? Nhưng nhìn con gà xem, đúng bình minh kêu gáy, đánh thức mọi người dậy."
"Phu nhân bất ngôn, ngôn bất hữu trung", câu nói này của Khổng Tử ý muốn nói, kẻ sĩ hoặc là không nói, hoặc là mở miệng ra nói câu nào đúng câu ấy.
Đừng nói những lời vô ích không có giá trị, nói nhiều cũng vô ích, quan trọng là nói đúng trọng tâm. Lời ít ý nhiều, đây là cảnh giới. Nói, hãy nói sao cho đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh, đúng người và nói những lời thích hợp
5 . KHÔNG GIÚP
👉Không giúp việc quá sức với mình
"Lực vi thể phụ trọng, ngôn khinh mạc khuyên nhân", sức lực nhỏ bé đừng mang vác quá nặng, lời nói không có sức thuyết phục thì đừng khuyên người.
Giúp đỡ người khác cũng phải biết lượng sức mình.
Những việc người khác nhờ nếu trong phạm vi khả năng của mình, giúp được hãy giúp, còn nếu những việc đó nằm ngoài phạm vi khả năng của mình, đừng miễn cưỡng bản thân đi giúp.
Đừng vì sĩ diện, muốn lấy lòng người khác
Hãy lo cho bản thân mình tốt trước, chăm sóc quan tâm người thân trước tiên.
👉Không giúp việc vượt quá ranh giới
Giữa người với người, dù có thân thiết tới đâu, cũng nên biết chừng mực
Nắm rõ vị trí của mình, phân biệt rõ ranh giới giữa mình và họ
Liên quan tới việc nhà, việc riêng của người ta, những việc như vậy không nên giúp.
Những sự giúp đỡ vượt quá ranh giới, người khác chưa chắc đã lĩnh ngộ được ý tốt của bạn.
Những sự giúp đỡ đầy nghĩa khí nhất thời, rất dễ biến thành "ôm chuyện bao đồng".
👉Không giúp người không biết cảm ơn
Giữa con người với nhau: giúp đỡ là tình nghĩa, không giúp đỡ là bổn phận
Luôn tồn tại những người xem sự bỏ ra, sự giúp đỡ của người khác là điều hiển nhiên, họ nhận lấy mà không có một chút biết ơn nào
Bạn giúp họ 10 lần, chỉ một lần không giúp thôi họ sẽ trở mặt ngay lập tức
Đến cuối cùng, quay ra trách ngược bạn không nghĩa khí.
Trước khi giúp đỡ ai đó, hãy nhìn cho rõ nhân phẩm của đối phương, nếu không mọi công sức của bạn sẽ đều là phí công vô ích.
________________
Sống_Tích_Cực
Nguồn: CafeBiz

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020

CUNG CẤP THÔNG TIN TƯ VẤN PHONG THUỶ


TRÂN TRỌNG THÔNG BÁO!

Nhằm mang đến cho khách hàng những giá trị thiết thực, PHONG THỦY CAO TÂM ĐỈNH cung cấp các dịch vụ sau (Ngoài giờ hành chính và các ngày nghỉ thứ 7 và chủ nhật):
DỊCH VỤ TƯ VẤN PHONG THUỶ HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI NHÀ Ở online (DƯƠNG TRẠCH)
I. Hồ sơ thiết kế gồm:
          1.Trang bìa
          2. Huyền không phi tinh ( Phân kim + chi tiết 8 quái và trung cung + Kỳ môn độn giáp + Khai môn điểm thần sát theo huyền không + Thần sát + Bát trạch + Vòng tràng sinh Ngọc liễn kinh (Vòng sao phúc đức) .
          3. Trạch quái
          4. Mệnh quái
          5. Vị của cửa
          6. Phương án Tầng 1,2,3…
          7. Luận đoán, dự đoán tương lai và hướng dẫn khi gặp năm vận hạn xấu đối với nhà ở.
          8. Trấn yểm (nếu có) + kích hoạt các cung.
          9. Ngoài các vòng La kinh trên còn có chi tiết như: Vòng La kinh tổng hợp, Vòng La kinh Đại quái ( Đại Thành, Liên Thành).
10. DỊCH VỤ TƯ VẤN PHONG THUỶ MUA ĐẤT:
*Lưu ý: 
- Dịch vụ tư vấn - Thiết kế định vị mặt bằng phong thủy Quý khách cung cấp thông tin chi tiết để xem Phong thủy, cụ thể:
+ Độ số về hướng nhà, Tọa, Cửa chính theo La bàn, La kinh (tốt nhất). Hướng nhà (chính xác bao nhiêu độ, Ví dụ: 178 độ Nam).  Địa thế chung quanh nhà có gì? (Như: ngã ba ngã tư vào nhà, nhà cao thấp bên trái bên phải – trước sau nhà ở, đường xá...).
+ Thời gian căn nhà sinh ra (ngày nhập trạch, ngày sửa nhà ...)
+ Ảnh chụp định vị GPS (Google Map) thửa đất kèm tuyến độ theo vệ tinh. Ảnh chụp định vị GPS (Google Map) tại Tâm thửa đất khi chụp xong ảnh thì chia sẻ lại để làm căn cứ xác định chính xác độ số hướng nhà khi người thực hiện làm Phong thủy áp Lakinh theo độ số ảnh vệ tinh tại thửa đất và áp Lakinh vào bản vẽ của Kỹ sư Thiết kế xây dựng – thường thì độ số lấy qua ảnh vệ tinh nếu có sai số thì cũng rất nhỏ trong phạm vi cho phép). (Lưu ý: Đây là một công việc rất quan trọng thực hiện tư vấn qua mạng cho Gia chủ. Nếu không cung cấp được như trên Quý khách có thể cung cấp Vĩ độ - Kinh độ tại vị trí nhà ở hiện tại. Ví dụ chia sẻ Maps để tìm Tọa hướng vị trí thửa đất hay nhà định xây dựng:
* Chia sẻ Maps (Bản đồ);
* Gửi sơ đồ thửa đất hiện tại được cấp Quyền sử dụng đất – Sổ đỏ (Bản đồ): Mục đích để định Tâm nhà và áp Lakinh tìm độ số hướng nhà, hướng cửa chính xác: Chụp ảnh lại bìa đỏ đã được cấp quyền sử dụng đất (Trong đó đã có phần xác định hướng B để xác định chuẩn hướng nhà – Không đo bằng điện thoại vì sẽ không cho độ số chính xác dẫn tới tư vấn bị sai lệch). Ảnh chụp từ tâm nhà ra 4 hướng (từ trên cao chụp xuống là tốt nhất)

Khi Gia chủ cung cấp tất cả yêu cầu trên mới đủ điều kiện để tư vấn Online.


Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2020

TÌM HIỂU VỀ PHONG THỦY

TÌM HIỂU VỀ PHONG THỦY


Thuật phong thuỷ đã chia xẻ sự phát triển của nó cùng với khoa thiên văn và khoa dự án (quẻ dịch) của Trung Quốc cổ. Nó đã có từ thời đại truyền thuyết. Dù rằng không có những dữ kiện xác thực cho chúng ta biết ai đã hình thành nó và vào thời điểm nào. Tuy thế, nó rất gần gũi với la bàn từ truờng của nguời Trung Quốc cổ, làm cho nguời ta liên tuởng đến việc nó có thể bắt đầu vào khoảng thời gian la bàn đuợc phát minh, thành quả này đuợc nguời đời tin rằng Hoàng đế Vàng-một nhà vua theo truyền thống cổ của Trung Quốc đã sống khoảng năm 2700 truớc công nguyên. Nguời ta không đưa ra một chứng cứ lịch sử nào về sự đóng góp này, nhưng một điều chắc chắn là việc sử dụng thật sự có từ thời đại cổ xa.
Có rất ít tài liệu lịch sử xa xa liên quan đến môn phong thuỷ, nhưng trong những vụ khai quật kho cổ hơn tám mươi năm qua ở Trung Quốc đã tìm thấy những tài liệu dưới lòng đất có ngày tháng vào khoảng thế kỷ thứ ba, thậm chí từ trước công nguyên với một số thông tin gián tiếp có liên quan đến phong thuỷ. Một số học giả cho rằng, các kiến thức và sự sử dụng nó có thể vào mùa xuân hay thu, hoặc thời kỳ chiến tranh các nước (770 - 221) trước Công nguyên, khi có khoa dự đoán, kinh dịch và vũ trụ học dựa trên năm yếu tố Ngũ hành đầu tiên được soạn thảo công phu và viết thành văn bản.
Ðây có thể là một hệ thống mà môn phong thuỷ rất gần gũi, đặc biệt là kinh dịch, nguời ta cho rằng đuợc biên soạn bởi Lão Tử khoảng năm 600 truớc Công nguyên, nguời đã sáng lập nên đạo Lão. Nhưng ngoài những dữ kiện mỏng manh và ký hoạ này, người ta có rất ít nguồn thông tin liên quan đến phong thuỷ cũng như sự co' mật của nó. Nguời ta hy vọng rằng các vụ khai quật trong tuơng lai sẽ có một ít tia sáng cho vấn đề này.
Chưa đến thời kỳ đầu của triều đại nhà Hán, một học giả nổi tiếng và cũng là một nhà chiến luợc quân sự Zhang Liang (230 - 185 trớc Công nguyên) xuất hiện trong các tài liệu lịch sử là một nhà phong thuỷ. Theo truyền thuyết ông được một đạo sĩ truyền lại kiến thức này, tên là Chisongzi (Red pine Masterrl, một số người khác cho rằng Zhang cũng là môn đệ của một nguời lão luyện khác là Shigong. C hai Hồng Phạm và Thạch Hoàng đều đuợc xem là cha đẻ của thuật phong thuỷ vào thời cổ Trung Quốc (dù rằng các sử gia có thể phần bác điều này, họ tin rằng thuật phong thuỷ đã có truớc đó).
Thuật phong thuỷ của Hồng Phạm đóng góp một phần đặc biệt quan trọng cho chúng ta ở cuốn sách này. Ông ta đuợc cho là nguời sáng tạo ra của phần Cửu tinh (9 sao) Bát môn (8cửa) và Bát quái phong thuỷ mà chúng ta sẽ tham khảo và nghiên cứu. Cửu tinh nói đến chòm sao (7 ngôi) đợc gọi là Ðại hùng tinh có thêm hai ngôi sao thần linh tưởng tuợng ra. Bát môn đề cập đến 8 điểm chính của La bàn Bát quái và tám cung cơ bản đuợc sử dụng trong kinh dịch dự đoán ( sẽ được thảo luận chi tiết hơn ở phần II).
Trong suốt thời ký Tam Quốc một thiên tài chiến lược nổi tiếng Gia Cát Lượng (Khổng Minh) (181 - 234 sau Công nguyên) xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc. Ông ta sử dụng các chiến thuật dựa trên bát quái đồ để du địch tiêu diệt quân Tào. Khổng Minh là một nhà chiến luợc quân sự đại tài cũng như về thuật phong thuỷ và đuợc tôn kính là nguời sáng lập môn phái phong thuỷ.
Các truyền thuyết về ba vị thầy vĩ đại, Hồng Phạm, Thạch Hoàng và Khổng Minh đã đặt nền tảng cho tất cả những bậc thầy phong thuỷ cho hai ngàn năm kế tiếp. Một số người tin rằng Yellow Stone cũng là nguời đa thuật này vào văn hoá dân gian, do kết quả của nỗ lực này, khoa phong thuỷ không còn là một công cụ bí mật quý giá của một số nguời có đặc quyền và các vị vua có quyến lực trị vì thiên hạ. Ông ta chọn lựa những môn đồ có tài năng để truyền bá kiến thức này cho quần chúng.
Trong suốt thời kỳ đầu nhà Hán (khoảng năm 200 trước Công nguyên) một tác gi có tên là Oing Wu đã viết ba tập về phong thuỷ. Một vị khác tên là Guo Pu (năm 276 - 324 sau Công nguyên) đã xuất hiện suốt thời ký Tây Hán. Ông ta đuợc công nhận tác giả cuốn sách truyền thuyết về phong thuỷ gọi là Zang Shu (cuốn sách bàn về việc Chôn Cất). Tiếc thay, chỉ còn lại những tựa đề của những tác phẩm đầu tiên về phong thuỷ truyền lại cho chúng ta, các văn bản để thất thoát và lẫn lộn vào các tác phẩm khác. Những công cuộc khai quật kho cổ trong tuơng lai có thể tì thấy những phần của các tài liệu gốc nhưng hiện nay tất cả các bản còn lại này là các bản sửa đổi lại, có lẽ được ghi chép (năm 960 - 1279 sau Công nguyên). Ngay các bản in hiện đại của các bản sửa chữa đều khó hiểu và đuợc viết bằng loại chữ cổ điển Trung Quốc mà ngày nay hiếm nguời có thể đọc đuợc.
Vào khoảng thế kỷ thứ 7 sau công nguyên, đã có một số văn bản viết về khoa phong thuỷ. Một lần nữa, chúng chẳng tồn tại đuợc bao nhiêu và một số ít bản sửa đổi sau này lại do những nguời viết không đạt chất luợng. Một số nguời cho rằng sự khan hiếm các tài liệu đuợc viết từ xa do bởi tập quán truyền lại các thông tin qua sự truyền khẩu hoặc nhớ bằng ký ức cũng như tập quán bí truyền từ thầy cho môn đệ, một phương pháp cho phép các sư phụ giữ lại các phần thực hành và sự hiểu biết quá tầm tay của các nhà học thuật bình thường, các nhà phê bình và các tầng lớp có thế lực. Phong thuỷ là một môn nghệ thuật kín mà những học giả có khuynh hướng về nghệ thuật, lịch sử Trung Quốc không quan tâm đến, những người này đã xem nó là một bộ sưu tập văn hoá dân gian và là một sự mê tín. Nhưng nó vẫn tồn tại mãi trong lòng của những người thường dân.
Nghệ thuật phong thuỷ đã đạt tới đỉnh cao của nó trong một triều đại nhà Tang (Tần) (năm 618 - 906 sau công nguyên) nhiều người hành nghề này phát triển hưng thịnh. Tám người nổi tiếng nhất là Yang Junsong, You Yanhan, Li Chungfeng, thiếu sư Yi Hang, nhà sư Phật giáo Shima Touto, Riu Baitou, Chen Yahe Va Futu Hồng cùng là phật tử. Trong những pháp sư đời Tang (Tần) Yang Jungsong (khoảng 650 sau công nguyên) có ảnh huởng to lớn nhất và qua ông ta cũng như các môn phái phong thuỷ khác đã truyền bá lại cho chúng ta.
Sự quan tâm đến phong thuỷ và cách áp dụng đã đuợc hồi phục lại một thời đại nhà Song (960 - 1279 sau công nguyên) và nhiều vị thầy nổi tiếng đã xuất hiện. Trontg các vị là Wu Aixian (thế kỷ 11 sau công nguyên) và các môn đệ của ông ta Liu Qiwan và You Gounghang, Wu Aixian nguời sáng lập môn phái đuợc gọi là 36 kinh tuyến đã viết một luận thuyết và các hình thể của núi (sn) dùng cho thế đất mai táng và nhà ở. Từ các vị thầu Liu You, đã hình thành nhiều nhánh phong thuỷ khác nhau đuợc sử dụng trong suốt đời nhà Minh (1368 - 1643 sau công nguyên) và đời nhà Quing (1644 - 1911 sau công nguyên).
Nguời ta ghi nhận rằng, suốt 500 năm kéo dài từ đời nhà Tang đến nhà Song, hơn một trăm môn phái phong thuỷ đã đối địch và tranh giành ảnh huởng lẫn nhau. Tất cả các môn này đều khởi đầu cùng một quan niệm thần học vũ trụ học và các lý thuyết. Ðể rồi sau đó phát triển thành nhiều sự diễn giải khác nhau, mỗi một môn phái đặc biệt quan tâm đến hoặc tập trung vào những khuynh huớng nào đó của phong thuỷ. Sau đó, một số môn phái đồng hoá lẫn nhau. Ðây là một danh sách bởi môn phái chính đuợc công nhận kể từ thời kỳ nhà Tang Song, tất cả các môn phái này tiếp tục có ảnh huởng đến những nguời hành nghề ngày nay.
1. Cửu tinh (chín sao), Bát môn (tám cửu), Bát quái đồ.
2. Những kinh môn - Sanh môn
3. Ngũ hành chính thống
4. Luỡng sơn, Tam hợp và Ngũ hành
5. Bát quái, Ngũ hành
6. Huyền Không Ngũ hành
7. Hồng Phạm Ngũ hành.
Lý thuyết phong thuỷ thuộc vũ trụ học và dựa trên các khái niệm của Ðạo Gia Nhân (con người và Vũ trụ). Mục đích của nó là sự thống nhất của Thiên, Ðịa, Nhân và Vật thể qua một lực đuợc gọi là Thái hư (Taijia), cơ bản tối cao (nguyên khí của Vũ trụ khi cha hình thành âm dương).
Nguời Trung Quốc cổ tin rằng khi sự kết hợp như thế được tạo nên, qi (các khí lực) của sự sống chy chan hoà khắp tất cả sinh vật, vật chất, những sự kiện tốt đẹp và hữu ích sẽ đuợc tạo nên.
Sự tắc nghẽn khí lực của sự sống sẽ tạo ra một sự đối nghịch: bất hạnh và tai hoạ.
Các lý thuyết kết hợp Trời, Ðất (thiên, địa), con nguời (nhân) là cốt lõi của thuật phong thuỷ, từ đó nảy sinh ra nhiều truyến thuyết và các câu chuyện dân gian. Các hệ thống tư tưởng to lớn trừu tượng về vũ trụ sau đó hoà lẫn vào các tính ngưỡng dân gian khi người Trung Quốc cổ cố gắng giải thích về những mãnh lực hữu hình cũng như vô hình trên thế gian và các ảnh huởng bí ẩn lẫn phức tạp của những mãnh lực này tác động vào thái độ của con người.
Việc đối phó với những sự kiện không thể tiên đoán đuợc trong cuộc đời không phi mục đích chính của phong thuỷ. Ðiều hấp dẫn nhất là giúp họ củng cố tinh thần trong thời gian gặp khó khăn hoặc bi kịch. Ðối với nguời Trung Quốc cổ, sự hoà hợp giữa con nguời và thiên nhiên là một sự chuẩn bị cần thiết và đúng đắn cho lĩnh vực tinh thần, trong đo con nguời và vũ trụ có thể là một. Sự hiểu biết về văn hoá dân gian đã dạy họ khả năng chấp nhận một sự nghiệp khó có thể giải thích đuợc và cùng lúc thiết lập một nền tảng vững chắc một cuộc sống cho hòa bình, hy vọng, những uớc momg thịnh vuợng lâu dài. Ðối với nguời Trung Quốc, thái độ này thật ý nghĩa, thoải mái và thực tiễn. Tuy nhiên, nó cũng tạo nên nguồn gốc hài hoà giữa con nguời và thiên nhiên, tạo nên một bản đồng ca đặc biệt đượm tình nguời. Những khuynh huớng chủ yếu về vũ trụ học của thuật phong thuỷ đuợc hình thành theo những sự liên hệ sau đây:
Trời (Thiên) là khái niệm bao gồm:Thần thánh, ma quỷ, tinh tú (với tư tưởng thần học và thiên văn học); thời gian (gồm chu kỳ các mùa và những ảnh huởng của chúng) và tất cả biểu thị những sức mạnh vô hình lẫn hữu hình cũng như sức mạnh của vũ trụ. Những nghệ thuật dự đoán, số học và các hình thức tiên tri kết hợp với trời.
Ðất (địa) và vật thể là các thuật ngữ đuợc dùng để mô tả các vật thể trần tục và các điều kiện hữu hình lẫn vô hình. Môi truờng dịa lý, phuơng hướng, vị trí và nơi toạ lạc; Ngũ hành, quyền lực và sức mạnh của thiên nhiên; sự cân bằng và đối nghịch về trật tự của thiên nhiên, cái vô hình kết chặt với ảnh huởng của sông núi, cây cối, thú vật, đất đá, con nguời, nhà cửa, đồ vật v.v...Tất cả các thần này thuộc lĩnh vực đất (địa) và vật thể. Nó cũng bao gồm những yếu tố của siêu nhiên như ma quỷ, thần thánh hổ tng với con nguời trên trên trái đất này. những khía cạnh về lĩnh vực vô hình thì không có thời gian, không gian hoặc những giới hạn. Nguời Trung Hoa cổ cho rằng tất cả mọi con nguời chúng ta với thế giới này cùng nhau chia xẻ điều thân ái, an vui, nguy hại hoặc phiền toái.
Nhân (con nguời) biểu hiện trí tuệ và tinh thần nhưng phải kết hợp cùng Trời, Ðất, Vật thể sao cho có sự hoà hợp và cân bằng các nhận thức. Ðiều này có thể đạt được qua một sự quan hệ được thiết lập chính xác giữa tất cả các sức mạnh trong thiên nhiên, cho phép chúng trôi chảy thông thường và nuôi sống cuộc đời.
Thái hư và trung cung là những thuật ngữ độc quyền của ngành vũ trụ học Trung Quốc và thuờng đuợc dịch sang với nghĩa "Tối thuợng" và "Mãnh lực của cuộc sống". Nguời Trung Hoa ngày xưa tin rằng Bí mật của Thái hư là nguồn tối thượng của lực sống trong cuộc đời này, nó đi qua "Thái hư" và tất cả sự vật có thể kết hợp lại thành một.
QI (Trung cung không có dạng, hình hoặc kích cỡ), nhưng qua nó tất cả mọi vật trong vũ trụ chứng tỏ cả hai lĩnh vực vô hình lẫn hữu hình. Sự hư hao của vật chất là sự bào mòn của qi và sự chết của vật chất là sự biến mất của nó. QI là một khái niệm trừu tuợng to lớn của sự hài hoà và hợp nhất của tất cả mọi vật.
Vì thế cho nên, tất cả những nguời Trung Quốc luôn luôn nghĩ rằng con nguời phải bảo vệ và nuôi duỡng (qi) khí lực của cuộc sống để đảm bảo nó liên tục phát triển và trôi chảy. Ðạo Gia dạy rằng việc nuôi duỡng ?Sức sống? từ bên trong có thể bổ sung sức khoẻ và truờng thọ. Tuơng tự, sự bảo vệ "sức sống" "qi" trong căn nhà có thể dẫn đến sự an vui và hoà thuận. Các quan niệm đặc biệt của "Sức sống/qi" và sự tồn tại của nó xâm nhập vào tất cả các ngành nghệ thuật Trung Quốc từ triết học, thi ca, hội họa cho đến điêu khắc, thiên dịch, dược thảo, võ thuật và phong thuỷ.

PHONG THỦY LÀ GÌ?

PHONG THỦY LÀ GÌ?

Phong Thuỷ là gì ? Trước hết ta hãy xem giải thích: "Từ Hải" viết: "Phong Thuỷ, còn gọi là Kham D. Một loại mê tín ở nước Trung Quốc cổ. Cho rằng hình thể, hướng gió, dòng chảy xung quanh nhà ở hoặc mồ mả, có thể đem đơn hoạ, phúc cho người ở hoặc cho người chôn. Công chỉ cách xem nhà ở, phần mộ"

"Từ Nguyên" viết: "Phong Thuỷ, chỉ địa thế, phương hướng đất nhà ở hoặc đất phần mộ. Thời xa, mê tín căn cứ vào đó để xem lành giữ, tốt xấu và nhân sự"

Mới đây, Trường Ðại học Ðông Nam Trung Quốc xuất bản quyển "Nguồn gốc Phong Thuỷ", giáo sư Phan Cốc Tây trong lời tựa viết: "Nội dung chính của Phong Thuỷ là một loại học vấn mà người ta dùng để sử lý và chọn lựa hoàn cảnh ăn ở, cung thất, chùa chiền, lăng mộ, thôn xóm, thành thử; lăng mộ thì gọi là âm trạch. Phong Thuỷ và hoàn cảnh ăn ở, ảnh hưởng chủ yếu trên ba mặt: Một, sự lựa chọn địa điểm, tức tìm một địa hình thỏa mãn cả hai mặt tâm lý và sinh lý; Hai, xử lý về mặt hình thái trong cách bố trí, bao gồm lợi dụng và cải tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hướng nhà, vị trí, cao thấp to nhỏ, cửa ra vào, đường đi, nguồn cấp nước, thoát nước..v.v.., Ba, trên cơ sở nói trên, thêm vào một dấu hiệu, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý tránh cái dữ, lấy cái lành cho con người".

Học viện Dân tộc Trung Nguyên xuất bản cuốn "Tìm hiểu sự lành giữ trong Phong Thuỷ nhà ở", tác giả trong "Lời nói đầu" viết: "Trong vốn kiến thức lâu đời của Trung quốc, có một môn học gọi là Kham D, thông thường gọi là Phong Thuỷ. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả, thì cái gọi là Phong thuỷ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là "khoa học và mối quan hệ gữa từ trường trái đất và con người".Về nội dung, môn Phong thuỷ gồm hai phần, phần một là xem xét hình thái của núi, phần hai là xem xét phương và lý khí.

Chiêm Ngân hâm trong "Tri thức Văn Sử" số tháng 3 năm 1988 viết: "Cái gọi là Phong thuỷ, là tên thường gọi của thuật xem đất. Theo tập tục truyền thống của Trung Quốc, mỗi khi xây cất điều phải xem địa hình có được Phong Thuỷ hay không, sau đó mới chọn địa điểm thích hợp, tránh đất dữ".

Học gi Rosk Kowski khoa địa lí trường Ðại học NiuDi-Lân là một chuyên gia về nghiên cứu Phong Thuỷ, tác phẩm ông có "mối quan hệ Phong thuỷ giữa Văn hoá, thiên nhiên Triều Tiên", những năm gần đây nghiên cứu về Phong thuỷ Trung Quốc, trong bài đăng trên tạp chí "Nghiên cứu lịch sử khoa học tự nhiên" tháng 1 năm 1989, viết: "Phong Thuỷ là một hêj thống đánh giá cảnh quan nhằm tìm một địa điểm tốt lành cho công trình kiến trúc. Nó là nghệ thuật lựa chọn địa điểm và bố cục đía lý của Trung Quốc cổ đại, không thể căn cứ vào khái niệm của phương Tây mà nói một cách đơn giản rằng là mê tín hay khoa học...Phong thuỷ Trung Quốc được xây dựng trên ba cơ sở: (1) địa điểm này có lợi cho xây nhà hoặc xây phần mộ so với các địa điểm khác. (2) Ðịa điểm tốt lành chỉ có thể căn cứ vào những nguyên tắc Phong Thuỷ thông qua việc khảo sát địa điểm ấy mà lựa chọn. (3) Một khi đã có một địa điểm như thế, thì tổ tiên và con cháu sống hoặc mai táng ở địa điểm ấy, sẽ được hưởng một sự tốt lành do địa điểm ấy mang lại".

Người nghiên cứu về Phong Thuỷ, ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài rất ít. Các tài liệu đã dẫn ở trên có thể đại diện cho các quan điểm chủ yếu ở Trung quốc và nước ngoài. Ðại để có ba phái, người thì cho là mê tín, người thì bảo đó là học vấn, người thì nói đó là hệ thống đánh giá cảnh quan.

Chúng tôi cho rằng, Phong Thuỷ là một hiện tượng văn hoá, một loại thuật số chọn lành tránh dữ, một dân tộc lưu truyền rộng rãi, một loại học vấn về hoàn cảnh và liên quan đến con người, một tổng hợp về lý luận và thực tiễn. Phong Thuỷ có thể chia làm hai phần lớn: âm trạch và dương trạch. Dương trạch là nơi người sống hoạt động, âm trạch là mộ huyệt của người chêt. Lí luận về phong Thuỷ các trường phái hình thể và trường phái lí khí. Phái hình thể nặng về hình thể sông núi mà luận lành dữ. Phái lí khí lại nặng về âm dương, quái lí để luận lành dữ. hạt nhân của Phong Thuỷ là "sinh khí". Khái niệm của nó vô cùng phức tạp, đề cập đến long mạch, minh đường, huyệt vị, dòng chảy, phương hướng v.v…

Nó có rất nhiều điều kiêng cữ, rất cẩn thận với thời gian, phương vị, địa điểm. Học thuyết về âm trạch mang đậm màu sắc mê tín, đầu độc dân chúng rất nặng. Lí luận về dương trạch và thực tiễn, có tính hợp lí nhất định, có thể biến hủ lậu thành thần kỳ. Việc nghiên cứu Phong Thuỷ ở giai đoạn đầu, cần phải đi sâu thêm.

Phong Thuỷ mà nguời ta thường gọi trên thực tế bao gồm hai ý. Có khi chỉ địa hình tốt, phong cảnh tốt. Khi đi chơi trên sông Ly, người ta thuờng buột miệng khen : "Phong thuỷ đẹp". Có khi, phong thuỷ là để chỉ thuật phong thuỷ, tức là lí luận và thực tiễn Phong Thuỷ. Ví dụ, người ta nói ông này ông nọ giỏi Phong Thuỷ, ông Mỗ nghiên cứu Phong Thuỷ, ông Mỗ kiếm cơm bằng Phong Thuỷ.

Nghiêm túc mà nói, Phong Thuỷ khác với thuật phong thuỷ. Phong Thuỷ tồn tại khách quan. Thuật phong thuỷ là hoạt động chủ quan đối với khách quan. Bản thể của Phong Thuỷ là thiên nhiên, bản thể của thuật phong thuỷ là con người.

Vì thói quen, mọi người đã nhập làm một Phong Thuỷ với thuật phong thuỷ, thì ta cũng không cần tách bạch ra. Có điều, chú ý xem người ta khi bàn về Phong "Thuỷ là nói khách quan hay chủ quan, để hiểu người ta nói theo nghĩa nào.
Phong Thuỷ là một thuật ngữ đã được xác định. Quách Phác đời Tấn là người đầu tiên giải thích. Quách Phác trong "Táng kinh", viết: "Táng(chôn) là đón sinh khí. Khi gặp phong (gió) tất tán, gặp nước ngăn lại tất dữơng, vì vậy gọi là Phong Thuỷ. "Vậy đón là đón thế nào? Tụ như thế nào? Thế nào là Phong Thế nào là Thuỷ?" Quách Phác không bàn tiếp.
Phong, là hiện tượng không khí chuyển động. Thuỷ, là dòng nước. Khí, tức là nơi địa khí (khí đất). Sinh khí, tức là địa khí có sinh cư (sức sống). Ðón sinh khí, là tìm kiếm hoặc lợi dụng địa khí có sinh cư (sức sống). Phong Thuỷ là môn thuật số đón nhận sinh khí.
Phạm nghi Tân người đời Thanh, chú giải "Táng kinh" của Quách Phác viết: "Không có nước thì gió đến mà khí tán, có nước thì khí dưỡng mà không có gió, do vậy hai chữ Phong Thuỷ là quan trọng nhất trong môn địa học, mà trong đó đất mà có nước là tốt nhất, Ðất mà tàng phong (có gió ẩn nấp) thì kém hơn". Như vậy là nói vấn đề then chốt của xem đất là vì că nước mà tụ khí, nếu không có nước, hễ gió thổi là khí tan đi. Chỉ cần có nước, khí sẽ tụ lại, dù gió cũng không thổi khí đi. Ðất mà có nước là tốt nhất, đất tránh được gió thì kém hơn.
Vì vậy, các thầy Phong Thuỷ xưa nay, bao giờ cũng bắt đầu tỏa long mạch, long mạch là khí của đất, khí do nước dẫn mà đón, khí do nước cản mà bị ngăn lại, khí tụ lại, không có gió làm tan ra. Có sinh khí, người chôn ở đó liền có phúc ầm.
Ngày xa, dân gian dùng rất phổ biến cái tơ Phong Thuỷ, còn quan lại thì không hẳn như thế. Trình hoà đời Minh đi sứ Tây Dương, đi theo trên thuyền có viên quan làm công việc Phong Thuỷ. Hướng viên quan đó phụ trách quan sát gió và nước (Phong Thuỷ) khác với Phong Thuỷ ta vẫn hiểu. 

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2020

HÓA BÀ KHOA(KHOA CÚNG MỤ)


HÓA BÀ KHOA(KHOA CÚNG MỤ)
Hoa lâm khai hách dịch
Đăng quang biến mãn diên
Hương hoa cung chúc đảo
Lục lục hóa bà tiền
Nguyện thùy từ mẫn niệm
Anh hài bảo bình an
Thiết dĩ, pháp duyên phương khải, tín lễ sơ trần,vãng lai khủng thiệp ư đàn tràng. Khiết tịnh nghi bằng ư bí chú, mật trì thất biến thanh tịnh thập phương, tịnh uế chân ngôn cẩn đượng cẩn đương trì tụng.
Nam mô tát đá nẫm tam điểu tam bồ đà câu chi nẫm án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha ( 3 lần)
Án bắc đế tra thiên thần na la địa tra sa hạ (7 lần).
Phục đĩ; tam thiên chi thượng duy đạo độc tôn, vạn pháp chi trung, thiêu hương vi chủ. Nhất lô tài khởi, thánh chúng giao tri, dĩ kim phần hương kiền thành cúng dàng.
Tam thập lục Hóa Bà thần quân,Tam Thiên Thượng Thánh thập cực cao chân, tam cung hoàng thái mẫu, thất thập nhị cung tiên nữ đàn nương cập giáng thai, kết thai, hộ thai. Hộ sản, hộ nhũ bộ, hộ tẩy trạt, hộ phòng chư phu nhân, nhị thập tứ khí hóa bà, thập nhị huê chi hóa bà, nhất thiết chư chúng. Trượng thử bảo hương phổ đồng cúng dàng.
Tư thần cẩn tấu vì Việt Nam quốc; …. Tỉnh; … huyện .. Xã; …thôn; y vu gia xứ.
Tín chủ:
Sinh hoạch hoa chi; ….niên, .. Nguyệt, ... Nhật, .. Thời, đắc sinh ... Tử, danh vi: ....
Giải hạn kỳ an, tư bằng thiết lập giải trừ hình xung hoa chi quan sát, hộ mệnh pháp đàn nhất duyên. Cụ trần bạc lễ túc phụng cao chân, đông hoa thanh bạ, kỷ tích thiện chi công huân. Nam cực chu thư, chú trường sinh chi thọ toán, giải trừ quan sát, bảo hựu bình an, bách bệnh tống trừ, chư tai tiêu diệt, tín chủ kiền thành thượng hương phụng thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh:
Bà Cả Thiên Vương, Bà Hai Thiên Vương, Bà Ba Thiên Vương, Thập Nhị Thời Bà, giáng lâm hoa tọa, nhang hoa thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh
Thập Nhị Hóa Bà, Cửu Thiên Đô Tiên Thánh Bà, Tam Giới Lục Cung Hoàng Hậu, Thái Mẫu Chân Tiên, Nhất Thiết Hoa Chúa giáng lâm hoa tọa, nhang hoa thỉnh.

Nhất tâm phụng thỉnh:
Thiên Bà, Địa Bà, Thập Nhị Thời Bà, Đầu Bà, Mục Bà, Thủ Túc Bà, Tứ Chi, Bát Mạch, Ngũ Tạng, Ngũ Phủ, Nhị Thập Tứ Tiết, Liệt Vị Thánh Bà, hộ trì hài tử giáng lâm hoa tọa; nhang hoa thỉnh.
Chí tâm quy mệnh lễ thỉnh Tam Thập Lục Hóa Bà Thần Vương, Tam Thanh Thượng Thánh Thập Cực Cao Chân. Tam Cung Hoàng Thái Mẫu. Thất Thập Nhị Cung Tiên Bà.
Cẩn Thỉnh Hoa Gia Phán Quan. Lý Gia, Chu Gia Phán Quan, Ngũ Phương Ngũ Đế Trị Bệnh Phán Quan.
Cẩn Thỉnh Bà Cả Thiên Vương, Bà Hai Thiên Vương, Bà Ba Thiên Vương. Thập Nhị Thiên Tiên Bà. Thiên Đô Tiên Nữ Thánh Bà.
Phụng Thỉnh Ngũ Phương Ngũ Đế Thiên Thánh Bà. Hộ Thai Thần Quân, Địa Thánh Bà, Nhân Thánh Bà, Thủy Thánh Bà. Thần Thánh Bà, Thổ Thánh Bà. Thiên Hoàng Bà, Dưỡng Thai Phu Nhân. Địa Thánh Bà, Tẩy Trạc Phu Nhân. Nhân Thánh Bà, Nhũ Bộ Thai Phu Nhân, Thủy Thánh Bà, Tẩy Diện Phu Nhân Thổ Thánh Bà, Thủ Thai Phu Nhân, Hoa Vương Phụ Mẫu, Hoa Gia Phụ Mẫu, Bào Thai Phụ Mẫu.
Phụng thỉnh
Giáp Tý Vương Văn Lang Thánh Mẫu.
Giáp Tuất Độ Giang Ba Thánh Mẫu.
Giáp Thân Quận Văn Trường Thánh Mẫu.
Giáp Ngọ Vệ Thượng Khanh Thánh Mẫu,
Giáp Thìn Mãnh Phi Khanh Thánh Mẫu,
Giáp Dần Minh Văn Chương Thánh Mẫu.
Lục Nhâm Thánh Mẫu.
Thượng Nguyên Lập Thân Thiên Thánh Bà.
Trung Nguyên Kiến Thể Thiên Thánh Bà.
Hạ Nguyên An Hình Thiên Thánh Bà.
Tốn Cung Tứ Lục Nhân Thánh Bà,
Khôn Cung Nhị Hắc Địa Thánh Bà,
Trung Cung Ngũ Hoàng An Thai Thánh Bà.
Càn Cung Lục Bạch Thiên Thánh Bà.
Ly Cung Cửu Tử Hỏa Thánh Bà
Thiên Thân Hộ Thai Đồng Thánh Nương Bà.
Tạo Nhãn Thiên Nữ Thánh Nương Bà.
Đoài Cung Thất Xích Kim Thánh Bà
Cấn Cung Bát Bạch Thần Thánh Bà
Kiến Thiệt Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Kiến Nhĩ Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Kiến Tỵ Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Kiến My Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Giám Ý Thiên Nữ Thanh Nướng Bà
Giám Can Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Giám Phế Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Giám Thận Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Giám Tỳ Thiên Nữ Thánh Nương Bà
Giám Xuân Xuân Đáo Hộ Hồn Bà.
Giám Hạ Hạ Đáo Dưỡng Khí Bà
Giám Thu Thu Đáo Thị Hồn Bà
Giám Đông Đông Đáo Huyết Thông Bà
Chuyển Nam Nữ Quyên Tâm Bà
Biến Nam Biến Nữ Từ Thiện Bà
Hóa Ngũ Hành Lục Giáp Linh Thánh Bà
Giám Hiếu Sinh Tâm Thập Nhị Hóa Bà
Duy nguyện, thánh bà giáng lâm hoa tọa. Hương hoa thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh:
Kim niên, kim nguyệt, kim nhật, kim thời, hư không quá vãng thần tiên tứ trực công tào, trì phan đồng tử dẫn đạo tướng quan, Kim niên đương cai thái tuế .... Vương hành Khiến chí đức tôn thần, .... phán quan, .... hành binh, kim niên chính chiếu .... thái tuế tinh quân. ..... niên bảo mệnh chư vị thần thánh. bản cảnh thành hoàng, bản gia Thổ Địa phúc đức chính thần, định phúc táo quân, hương hỏa hữu cảm nhất thiêt minh thần môn thừa hộ úy tỉnh táo long quan giám trai sứ giả kiên lao địa thần.
Duy nguyện, bất sả uy quang lai giáng đàn tràng thụ tư cúng dàng.
Nhất tâm phụng thỉnh:
Gia tiên cao cao tổ khảo, cao cao tổ tỷ, thúc bá đệ huynh, cô di tỷ muội nhất thiết liệt vị chân linh. Cung thỉnh: ... môn đường thượng lịch đại gia tiên, .... môn đường thượng lịch đại gia tiên. Duy nguyện, bảo hộ tử tôn lai giáng đàn tràng thụ tư cúng dàng.
Chư thánh bà hách hách nỗ lực cứu quần sinh giám thử vi thành ý kỳ tốc giáng uy linh.
Bà cả thiên vương thủ hộ phòng
Khu trừ quỷ chúng nhất thời không
Đồng nam đồng nữ thân cung tráng
Chi tiết câu vinh bách mạch thông
Bà hai thiên đế thủ trung ương
Quan sát tòng tư khứ viễn phương
Nhược hữu hung ương giai tẩu tán
Cung kỳ hài tử mệnh diên trường

Bà ba thiên vương thủ hộ thân
Mặc phù hài tử dị thành nhân
Khu trục tà ma quy hải ngoại
Hài đồng quân lại thái bình xuân
Càn thát bà vương tịnh quỷ vương
Ngọc hoàng sắc hạ tống tha phương
Tòng kim hướng vật chư can phạm
Vô tri đồng tử báo an khang
Hướng lai triệu thỉnh ký mộc quang các tự chân gia giai hàm y liệt toại. Giáo hữu an toa chân ngôn cẩn đương trì tụng.
Thánh bà tòng không lai giáng hạ
Nguyện kỳ đan khổn phó hương duyên
Tài văn tuyên diễn diệu chân ngôn
Giáng phó pháp đàn an vị tọa
Án tra ma sa hạ (7 biến).
Ân cần phụng thỉnh chư vị thánh bà, chư vị thần linh, thổ địa... Thị nhật (dạ) kim thời quang giáng hương duyên chứng minh công đức. Dĩ kim tín chủ ..... Kiền cụ hương, hoa, đăng, trà, quả, thực lý đương phụng hiến. Giáo hữu biến thực biến thủy chân ngôn cẩn đương trì tụng.
BIẾN THỰC CHÂN NGÔN
Nam mô tát phạ đát tha nga, đá phạ rô chỉ đế án tam bạt la tam bạt la hồng (3 biến).
CAM LỘ THỦY CHÂN NGÔN
Nam mô tô rô bà ra , đát tha nga đá ra, đát diệt tha. Án tô rô tô ra, bát ra tô rô sa bà ha (3 biến).
PHẢ CÚNG DÀNG CHÂN NGÔN
Án nga nga nẵng tam bà phạ phệt nhật la hộc (3 biến).
Nam mô phổ cúng dàng bồ tát ma ha tát (3 biến).
(pháp sự cầm mâm hoa, múa, đọc, rắc hoa)
Tán hương hoa lạc mãn hương diên
Thánh Bà tiền cúng dàng đồng căn sinh dị khí. Tám hoa lâm,
Phúc úc canh phân phương mãn hương diên.
Thánh Bà tiền cúng dàng, trản trản hoàng kim ngạc tán hoa lâm.
Phân phân bạch ngọc bàn mãn hương duyên. Thánh bà tiền cúng dàng. Tịnh nữ ngâm tiên khúc, tán hoa lâm
Đồng nhân xướng thiện tai mãn hương diên. Thánh bà tiền cúng dàng. Tam tuần kinh phụng hiến. Tán hoa lâm
Toái cẩm sái vân đoan, mãn hương diên. Bộ hạ tiền cúng dàng. Đạm bạc thử hương duyên, phân phương mãn tọa tiền.
Duy nguyện, hâm nạp thụ phó cảm ứng tự nhiên thiên trù thực. Vô lượng diệc vô biên. Tùy niệm giai xung túc. Phổ nguyện đồng cúng dàng. Đại thánh giái trừ hạn ách tiêu tai, tiêu tai diên thọ thiên tôn. kim thời lễ tạ, sở hữu sớ văn cần đương tuyên bạch.
Khế thủ chúc kiền điều ngự chủ
kim thân trượng lục độc xưng tôn
Diện như mãn nguyện bạch hào quang
giám sát tư thời kiền đảo ý
kim thời, kim thời khải thỉnh
hữu sớ tuyên đương hạnh đối uy quang cung duy từ thính cẩ đương tuyên bạch.
tuyên sớ.
Thượng lai văn sớ tuyên đọc dĩ chu sớ đối đàn tràng dụng bằng hỏa hóa.
Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 Lần)
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thân Bát Nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không; không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thụ hưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vố sắc, vô thụ, tưởng, hành thức; vô nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô, khổ, tập, diệt, đạo; vô chí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ Đề tát Đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quải ngại, vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo , mộng tưởng cứu cánh niết bàn. Tam Thế Chư Phật, y Bat Nhã Ba la mật đa số, đắc a nậu đa la ta niệu tam bồ đề.
Cố tri bát nhã ba ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại thần chú, thi đai minh chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư, tức thuyết chú viết:
yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. ma ha bát nhã ba la mật đa. (3 lần).
Pháp sư, sái chuông mõ, tín chủ chặt tiền cho vào mâm gạo
Phục dĩ, huyền ư hữu tượng cần tất ứng, nhi đảo tất thông, thần hóa vô tư, hóa giải quan sát nhi tức tiễn. ngưỡng mông chi thần đức, liệt vị linh quan, các sinh hoan hỷ chi tâm, công bá từ bi chi niệm, tiền giải tố khổn, bất sả thiện công, sủ hung ác dĩ tiền tiêu, tỷ trinh tường nhi biến tập, tín chủ, hài nhi đẳng. phàm tâm dị mộng ư thánh tâm nhân. đạo năng thông thần đạo. dục tiêm linh chúc tất đồn. đầu từ phục nguyện giải trừ quan sát, hung tai. triệu thỉnh nghinh phúc lộc chi vân, thái tòng tư mệnh vị duyên trường tự thị, gia môn hanh thái, phàm chư hạn ách, kim đối đàn tiền kim đương thỉnh giải.
Hoặc ngộ tam tai chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ tứ sát chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ ngũ mộ chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thái tuế chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ lục hại chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ hình xung chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thất thương chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ cấp cước chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ ngũ quỷ chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ tứ trụ chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ lôi công chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ đoản mệnh chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ quỷ môn chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ kim tỏa chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thiên cẩu chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thiết xà chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ kim kê chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thiên la chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ địa võng chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ táo quân chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ diêm vương chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ đoạn kiều chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thâm thủy chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ lạc tỉnh chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ tứ thời chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ tứ quý chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thiên điếu chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ hòa thượng chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ bách nhật chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ bạch hổ chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thang hỏa chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ dục bồn chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ thiên nhật chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ tướng quân chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ dạ đề chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Hoặc ngộ hạ tình chi tai kim thời phụng thỉnh giải.
Nhất thiết quan sát hung ương kim đương giải kết, khai giải ngũ thần ôn. phù chú chuyển pháp luân, âm dương ly cách biệt, thủy hỏa đoạn càn khôn, gia nội đồng khang thái, nam nữ thọ trường tồn.
Tiêu Tai Giải ách thiên tôn.
Duyên Thọ ích toán thiên tôn
Đại đạo bất khả tư nghì công đức.
Pháp sự cầm mâm gạo tiền xảy 3 lần rồi đọc bài kệ giải kết:
Giải kết giải kết giải oan kết
Giải liễu đa sinh oan trái nghiệp
Tẩy tâm địch lư phát kiền thành
kim đối án tiền cầu giải kết
Giải kết giảii kết giải oan kết
Giải liễu tiền sinh oan hòa nghiệp
bách thiên vạn kiếp giải oán thù
Vô lượng vô biến đắc giải thoát
Án sĩ lâm bộ lâm diệt
Ngô kim vị nhữ giải kim tra
án cường trung cường cát trung cát
ma ha hội lý nan thù luật
nhât thiết oan gia ly ngã thân
ma ha bát nhã ba la mật
nam Mô giải oan kết bồ tát ma ha tát (3 biến)
Đoạn lấy những đồng tiền mặt có chữ rồi đếm theo quy tắc : sinh - lão - bệnh - tử. nếu dư sinh lão thì được, nếu không thì phải chặt tiền lại. khi được sinh lão thì phải bỏ đồng tiền sinh lão đó vào giếng nước ăn. Số còn lại thì hắt ra ngã ba đường.
sau đó vào tụng hồi hướng:
Cúng hóa bà công đức thù thắng hạnh, vô biên thắng phúc giai hồi hướng. Phổ nguyện trầm mịch chư chúng sinh, tốc vãng vô lượng quang phật sái. Thập phương tam thế nhất thiết Phật, chư tôn bồ tát ma ha tát, ma ha bát nhã ba la mật, tứ sinh cửu hữu đồng đăng hoa tạng huyền môn bát nạn tam đồ cộng nhập tỳ lư tính hải.
nam mô Sa Bà thế giới tam giới đạo sư tứ sinh từ phụ nhân thiên giáo chủ thiên bách ức hóa thân bản sư hòa thượng thích ca mâu ni phật ( 3 lần).
Tự quy
tự quy y Phật đượng nguyện chúng sinh thệ giải đại đạo phát vô lượng tâm.
Tự quy y Pháp đương nguyện chúng sinh thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải
tự quy y đượng nguyện chúng sinh thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại.
hòa nam thánh chúng
nguyện dĩ thử công đức
phổ cập ư nhất thiết
ngã đãng dữ chúng sinh
giai cộng thành Phật đạo
Xướng: Trai chủ kiền thành tạ lễ hóa bà 4 bái.
Tiễn Đàn:
Đàn tràng dĩ tất phụng tống chư vị hóa bà cập chư Phật thánh hồi quy.
Tại Đông phương quy Đông phương
tại tây phương quy Tây phương
Tại nam phương quy nam phương
tại bắc phương quy bắc phương
tại trung ương quy trung ương
tại thiên thượng thăng thiên thượng
tại hạ địa hoàn địa linh
Thỉnh khứ lưu ân
thần khứ lưu phúc
Các xương thiên thu vạn vạn tuế.
nam Mô Đăng vân lô bồ tát ma ha tát.
tư thời đàn nghi cáo tất pháp sự chu viên, tượng đà sự thừa cận, phản ư tịch quang. Thánh cảnh long sa phượng liễn, tương huyên giá thiên cung.
Đại chúng chí thành khấu đầu tiễn biệt.
Hoàn khoa.