Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Kinh dịch: Vén bức màn bí mật Dịch học 1


Kinh dịch: Vén bức màn bí mật Dịch học 1

Phong thuỷ thực nghiệm cho đăng loạt bài “Mật mã Kinh Dịch” với mong muốn làm sáng tỏ hơn những bí ẩn trong kinh dịch, đưa ra những bí ẩn chưa hề được công bố ra trước đây, cũng như ý nghĩa của Kinh dịch. Từ khi cổ nhân tìm ra Dịch học cho đến nay chưa có ai có thể lý giải hết bí ẩn cũng như nội hàm trong Kinh dịch.
Bởi lẽ, Kinh dịch có khả năng dự đoán trước được tương lai, vậy là vượt trên kiến thức cũng như tư duy của người thường rất nhiều rồi, nhưng các nhà nghiên cứu Dịch học xưa nay viết về kinh dịch chỉ đưa ra những hiểu biết từ kiến thức của con người mà thôi, mà dùng kiến thức và tư duy của con người thì không thể lý giải kinh dịch được, những điều hiểu được về Kinh dịch từ trước đến nay chỉ ở mức độ con người, còn đạo lý vượt qua con người thì con người trước đây vốn chưa có ai nêu ra.
Chuỗi bài này là những kiến thức và những gì đã được biết từ trước tới nay, cũng như tổng hợp thêm kiến thức và bài viết của các đồng môn vốn hiểu rõ Dịch lý là Thần Quang, Tiểu Nham, Chính Ngộ,..và một số tác giả khác để đưa ra loạt bài này.
Ý nghĩa của Kinh Dịch
Mọi thay đổi nơi thế giới con người đều do thiên tượng biến hóa mà thành, thiên tượng chính là thể hiện của thiên ý, Kinh dịch cho phép con người biết được thiên ý mà hành xử. Khi con người thông qua kinh dịch dự đoán được tương lai thì con người sẽ tin rằng mọi việc chính là đã được an bài trước cả rồi, sự việc kia chưa xảy ra nhưng đã biết trước được sẽ xảy ra như thế. Vậy nên thuận thiên mà làm mới là tốt, mới là hợp với ý trời. Từ đó con người tin rằng có trời đất, thiện có thiện báo, ác có ác báo từ đó tâm tính con người nâng cao lên.
Những danh nhân ngày xưa đều dựa vào thiên ý mà làm thì tất thành, còn như làm trái với thiên ý thì dù có giỏi và tài năng đến đâu cũng không thành. Gia Cát Lượng là một điển hình. Vị quân sư nhà hậu Hán giỏi đến thế đã sớm biết nhà Hán sẽ phải diệt vong, nhưng vẫn ra giúp Lưu Bị nhằm khôi phục nhà Hán. Gia Cát Lượng cũng biết trước rằng đất nước sẽ chia 3, vì thế giai đọan đầu giúp nhà Hán thì Lưu Bị có thế yếu nhất nhưng vẫn giành chiến thắng hết trận này đến trận khác để lên làm vua nước Thục. Nhưng Gía Cát Lượng chỉ làm được đến đây, vì kết cục nhà Hán sẽ phải diệt vong, đó là thiên ý.

Vì thế dù Gia Cát Lượng có tài giỏi đến đâu thì cũng không giúp thêm được gì cho nhà Hán, 7 lần xuất quân ra Kỳ sơn, dù giành thắng lợi lớn nhưng rồi cũng phải rút quân trở về. Dù đã dồn được cha con Tư Mã Ý và châm lửa thiêu cháy đại quân nước Ngụy, nhưng 1 cơn mưa đến kịp lúc đã cứu được cha con Tư Mã Ý, đó chính là thể hiện ngọn lửa tài năng nhiệt huyết của con người không thể thắng được cơn mưa của trời vậy.
Bắt đầu từ Chu Văn Vương thời nhà Chu, Trung Quốc có rất nhiều nhà tiên tri, đều bằng "Kinh Dịch" mà dự đoán biến hóa thiên tượng trong mấy trăm, thậm chí mấy ngàn năm sau. Chẳng hạn «Càn Khôn Vạn Niên Ca» của Khương Tử Nha nhà Chu, «Mã Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng thời Tam quốc, «Thôi Bối Đồ» của Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong triều Đường, «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung (hiệu Khang Tiết) triều Tống, «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh, v.v. Những dự đoán của họ đối với đại thiên tượng trong thời đại đặc thù ngày hôm nay đều được lưu truyền trong dân gian.
Thế nhưng con người ngày nay đều xem kinh dịch như một công cụ để xem bói thay đổi đời, nghĩ rằng số mình xấu thế này, nếu đi xem bói có thể cải số được. Thực ra số mệnh con người đã định để trước cả rồi, vậy đi xem bói có thể thay đổi đường đời được không? Kinh dịch có thể biết trước được tương lai nhưng không phải là công cụ để làm cho con người thay đổi số phận của mình. Kinh dịch chính là thể hiện sự tồn tại của trời đất (Thiên tượng), mọi việc nơi thế gian đều do thiên ý tạo thành vậy. Người hiểu biết dùng Kinh Dịch để biết lúc nào "Tiến" và lúc nào "Thoái", thức thời là tuấn kiệt.
Kinh Dịch xuất hiện chính là để con người tìm hiểu Thiên ý, thiên tượng, thiên cơ, thiên tâm. Bởi vì, Thiên ý đã an bài, nên những biến hóa thiên tượng lớn đều được thu nhỏ thành quẻ tượng, hào tượng giản đơn trong «Kinh Dịch»; thiên tượng hiển lộ cho con người, để con người thuận theo Thiên ý. st

Chọn màu cho công ty


Chọn màu cho công ty

Bạn có khi nào nghĩ về việc chọn một gam màu nào đó cho công ty và các sản phẩm do công ty làm ra không?Nhiều nghiên cứu cho thấy việc xây dựng thương hiệu nên bắt đầu bằng cách chọn màu cho logo và các sản phẩm của công ty. Coca-Cola, McDonald, KFC chọn màu đỏ, Pepsi, Samsung, IBM chọn màu xanh.
  Những công ty này hiểu rất rõ việc sử dụng màu sắc thích hợp là yếu tố nền tảng để tạo ra hình ảnh tích cực nơi khách hàng.
Hơn nữa, màu sắc còn đóng vai trò vô cùng lớn trong việc khơi dậy trí nhớ của con người. Chẳng hạn, màu tím hoa sim còn gọi là tím Huế. Màu vàng của hoa mai làm người miền Nam nhớ Tết. Màu hồng nhạt của hoa đào làm người miền Bắc nhớ quê.
Màu sắc còn khơi dậy cho người ta nhiều cảm xúc, nhanh chóng truyền tải thông điệp không giống bất cứ một phương tiện giao tiếp nào. Vì vậy, chọn một màu phù hợp cho công ty là việc làm hết sức quan trọng khi xây dựng thương hiệu.
Màu được chọn, nên trước sau như một, khi xuất hiện trên bất cứ tài liệu quảng bá nào của công ty như logo hay bao bì sản phẩm. Và màu này cũng nên phù hợp với ngành mà công ty đang và sẽ kinh doanh vì gắn với sự hứa hẹn toát lên từ thương hiệu. Ngoài ra, chọn màu cho công ty nên tính đến yếu tố tâm lý.
Những gợi ý dưới đây chỉ để bạn tham khảo.
Màu xanh: cho người ta cảm nhận về sự tin tưởng và tính bảo đảm. Màu xanh khiến người ta liên tưởng đến trời và biển, tạo cảm giác thanh bình và truyền cho người ta sự tin cậy.
Màu đỏ: thường kích thích tuyến yên, làm tăng nhịp đập của tim và khiến người ta thở gấp. Phản ứng nội tạng của cơ thể khi tiếp xúc với màu đỏ khiến người ta năng nổ, mạnh mẽ, dễ bị kích thích. Chọn màu đỏ dễ gây cho người ta một sự đáp ứng say mê, dù không phải khi nào sự đáp ứng này cũng theo hướng thuận lợi.
Ví dụ, màu đỏ thường là biểu hiện của sự nguy hiểm, vỡ nợ. Nhìn chung, người châu Âu không mấy ưa màu đỏ, trái lại, người châu Á coi màu đỏ là may mắn, thể hiện tinh thần quyết thắng.
Màu xanh lá cây: nhìn chung, màu này bao hàm ý nghĩa sức khỏe, tươi mát và êm đềm. Gam màu đậm nhạt cũng có ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn màu xanh lá cây đậm biểu trưng cho sự giàu có và thanh thế. Màu xanh lá cây nhạt thể hiện sự êm đềm.
Màu vàng: cả Đông và Tây đều coi màu vàng tượng trưng cho mặt trời, thể hiện sự lạc quan, tích cực và ấm áp. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau tùy người cảm nhận, màu vàng còn thể hiện sự sáng tạo và sinh lực. Mắt người ta thường nhận ra màu vàng trước tiên, vì thế sản phẩm có màu vàng dễ bắt mắt người mua hàng khi đặt trên kệ hàng cùng với các sản phẩm khác.
Màu tím: màu thích hợp để chọn làm thương hiệu cho những sản phẩm thuộc loại mang tính sáng tạo. Pha trộn giữa màu đỏ và xanh, màu tím kích thích điều huyền bí, sự tinh vi, sự coi trọng yếu tố tinh thần và màu tím thường gắn liền với hoàng tộc. Màu tím nhạt kích thích niềm hoài cổ và tính đa cảm.
Màu hồng: tín hiệu phát ra từ màu hồng là sự xúc cảm mãnh liệt. Màu hồng đậm thể hiện sinh lực, sự trẻ trung, vui nhộn và sôi nổi. Màu hồng thích hợp cho các sản phẩm không đắt tiền và có tính thời trang dành cho các bà và các cô. Màu hồng nhạt tạo cảm giác dễ mến, càng nhạt càng lãng mạn.
Màu cam: tạo cảm giác vui vẻ, cởi mở và sức sống. Màu cam trộn giữa đỏ và vàng tạo cảm giác tập thể và thường gắn với tuổi thơ. Nghiên cứu cho thấy màu cam nhạt hấp dẫn với loại hàng hóa dành cho thị trường cấp cao, thích hợp cho dịch vụ y tế, khách sạn và các viện chăm sóc sắc đẹp dành cho phái nữ.
Màu nâu: thể hiện tính mộc mạc, đơn giản, bền bỉ và ổn định. Tuy vậy, màu nâu dễ tạo cho một số người cảm giác thiếu tích cực vì bị cho là không sạch. Màu nâu của gốm tạo cho người ta cảm giác giá trị. Màu nâu liên quan đến màu của đất nên thích hợp cho các loại xe tải và các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp.
Màu đen: thể hiện tính nghiêm túc, táo bạo, quyền uy và cổ điển. Màu đen tạo ra kịch tính và sự tinh vi, phù hợp với các sản phẩm đắt tiền nhưng cũng làm cho sản phẩm trông có vẻ nặng nề.
Màu trắng: màu này hàm chứa sự đơn giản, sạch sẽ và tinh khiết. Con mắt người nhận ra màu trắng là màu sáng nên sản phẩm mang màu trắng dễ nổi bật. Màu trắng thích hợp cho các sản phẩm liên quan đến lứa tuổi nhi đồng và liên quan đến sức khỏe.
Để đơn giản, khi bạn chọn các màu trên cho nhãn hiệu của công ty mình, trước tiên nên phân thành hai nhóm cơ bản: màu nóng và màu lạnh (âm hay dương), từ đó đối chiếu với loại hình hàng hóa, dịch vụ của mình mà ra quyết định.
Nhìn chung, màu ấm như đỏ, vàng phát đi tín hiệu mạnh mẽ, trong khi màu trắng, màu xanh thì bình yên và dè dặt. Vì vậy, khi chọn màu lạnh, bạn nên chọn gam màu nhạt để tăng sức mạnh và giảm tính dè dặt do các màu này tạo ra.
Nguồn: Phong Thuy Tong Hop



Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2018

Thập nhị phương Dược an tâm Thần Tượng

Thập nhị phương Dược an tâm Thần Tượng

- Cam Thảo, Nhân Sâm, Xuyên Khung, Đậu Khấu, Quan Quế, Đinh Hương, Xạ Hương, Cam Tòng, Giáng Hương, Hồi Hương, Trầm Hương, Bạch Đàn.
- Ra hiệu thuốc Bắc cân về tán nhỏ phong thành phong nhỏ gói lẫn với thất bảo.
Thất bảo: Vàng (Kim) - Bạc (Ngân) - Ngọc (Lưu Ly - Pha Lê) - Ngọc Trai (Xà Cừ) - Mã Não - San Hô - Hổ Phách (nhựa Thông)
- Vải viết cốt Tượng dùng bằng lụa Tơ Tằm.
- Lấy 5 thứ nước: Liên diệp thủy (nước đọng trên lá Sen) Khê khẩu thủy (nước cửa ngòi) Long tuyền thủy (nước lòng Đò) Tam kỳ thủy (nước ngã 3 sông) Hoa tỉnh thủy (nước váng trên mặt giếng làng khi sáng sớm hoặc thay bằng nước Dừa) lấy 5 thứ nước này để mài Son với Tam Thần (Thần Sa - Chu Sa - Hồng Hoàng) rồi viết cốt.
- Viết xong gấp cốt vào cho Thất Bảo, Thuốc cuộn chặt gói ngoài bằng Kinh Bát Nhã lấy chỉ Ngũ Sắc cuốn 5 vòng ngang, 4 vòng dọc ngoài cùng bọc Trang Kim và giấy nilon.
- Cắt 1 miếng Gương 2cm đặt vào trong cùng rồi an Cốt gắn huyệt.
- Hành khoa còn luyện Cốt và khai quang nữa làm đúng nghi tiết thì hiện bây giờ không mấy người hành trì được mà nói chung quy mỗi câu là phương tiện là xong.
- Thật ngao ngán nhẽ hữu thư vô truyền - hữu truyền mạc trì.
Nguồn bài viết lấy từ Diễn đàn công đồng tứ phủ hoangbo.vn


Địa Sư Thiết Luật ( Sưu tầm)


Địa Sư Thiết Luật ( Sưu tầm)

1. Cầu Phúc Tạo Phúc Trước Lấy Thành Làm Đầu : 
Bất kể mời người xem Phong Thủy hay xem hộ Phong thủy cho người, cả hai đều tất lấy thành tâm thành ý làm đầu. Tâm mà không thuần tức Ý Niệm không thuần, như thế Khí sẽ không định, Khí đã không định tất không thể hợp nhất hai Khí Âm Dương, thế thì nói gì đến thu hoạch Phúc Đức. Còn như thành tâm thành ý mà không có được Phong Thủy cực tốt, thì cũng không đem đến Đại Hung, giả gặp hung họa cũng đã giảm lực. Phong Thủy tốt không ở Tâm tốt, Tâm tốt không khỏi cần tích Đức.
2. Phong Thủy Có Thể Trấn Không Thể Đào Lên, Oán Gia Nên Giải Không Nên Kết. 
Thạch cao điểm đậu hũ nhất vật giáng nhất vật, hại người tổn thương mình, người nguy đã diệt trước, tổn Chân Long Đại Địa tất nguy cho xã tắc….. 
Đó là nói không nên lợi dụng nguyên lý Phong Thủy để làm tổn hại tha nhân để mình kết oán tình với người, càng không nên vô cớ phá hoại Phong thủy của người khác làm tổn thương Địa Mạch. Giăc khoảng đất trời hưng suy có luật, người không thể vì cải biến mà phá hoại, nguy cấp cho người mà cũng họa hại đến thân mà diệt vong, chỉ có thể lấy cái chết của mình mà làm điều khắc nghiệt mới có thể hại người, cũng giống như mượn tay người này hại người kia, như nếu tổn hoại phải Chân Long Đại Địa (Các Khí Mạch Lớn) thì có thể tổn hại đến cả một quốc gia, có thể đưa đến những vấn đề nghiêm trọng hoặc tai biến lớn, như nếu là Can Long, Đại tôn Quý Long hoặc Sông Lớn bị phá hoại nghiêm trọng, tất phát sinh sự vận chuyển gãy đổ của Khí vận Thiên Địa, nhân tâm cũng vì thế mà thành ra khô khan cứng lạnh, xã hội trong khoảng 10 năm cũng bị hỗn loạn…..
3. Đất Tốt Cần Có Pháp Đối Dụng, Phát Phúc Cần Phải Xem Thời Vận.
Âm Trạch, Dương Trạch không giống nhau, xí nghiệp hay các nhân có sự phân biệt, đất tốt cần phải phối hợp mệnh, lập hướng nên cần xem tháng năm. Xem được Đất tốt, Đất lớn không thể tự dùng cho mình, Chân Long Chính Huyệt không thể coi nhẹ thu lấy không thể lần phân chia loạn xạ. Đó là vì nói đến Đất Tốt khi thu dùng cần hội đủ Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa khi đó mới phát huy hết tác dụng, đất tốt không thể tùy tiện từ dùng, Chân Địa không thể coi thường lấy loạn, tức chỉ cần chia lấy đất bên cạnh Huyệt Địa cũng đã coi như phá hoại Địa Mạch, Chân Huyệt khi đó coi như bỏ phế, tai vạ do đó mà sinh, đồng thời coi như đã làm lộ Bí Mật Địa Lý cho người đời biết vậy !
4. Đất Nhỏ Xem Phúc Đức, Đất Lớn Xem Cơ Duyên. 
Phúc bạc duyên mỏng không thể chiếm Đại Địa, thời vận chưa đến không thể cưỡng tạo cưỡng chiếm Địa Mạch. Đó là nói về xem đất cầu đất trước tiên cần xem xem tự thân mệnh cách có phúc phần và đức tháo hay không rồi quyết định, nghèo thì lấy Phú Cục, Nguy thì lấy Bình Cục, Phú thì cầu giữ gìn trường tồn cho con cháu; Quý thì cầu An Khang bảo bình ổn, Trí với Dũng thì thu lấy Quý Cục mà cứu đời, các sự thu ấy đều cần xem thời vận đến hay chưa. Hiện nay bởi vì xã hội là thông tin giao lưu phát triển, cầu lấy Phong Thủy cũng có sự biến đổi trở lên dễ dàng, có một số người đi xa trăm dặm thậm chí nghìn dặm để mà tìm Chân Long Bảo Địa, họ cũng cũng không tiếc bỏ số vàng lớn để mà sở hữu, trộm sao cho một vận trong Tam Nguyên có thể đại phát đặc biệt, đúng là lầm lớn. Bằng vào phân tích khảo chứng phàm là các Chân Long Đại Địa vận hành một vòng cần một vài trăm năm, thậm chí nghìn năm mới quay lại một vòng, có một số đất tốt của một số gia tộc ở đã vài trăm năm sau mới phát một lần, có cái 3, 5 trăm năm rồi chưa phát, như Thiều Sơn là đất Tổ của Mao Trạch Đông từ đời Minh Hồng Vũ đã đến đó cư trú, vài trăm năm sau chưa có hiển đạt, thậm chí 5 trăm năm sau mới xuất Vĩ Nhân một đời Mao Trạch Đông. Lại có một số Phong Thủy Bào Địa ở đó vài trăm năm không phát, đến khi chuyển đi đất khác thì đại phát cát tường, như đất Tổ của thủ tướng Lý Quang Diệu đó. Cũng có một số khác rất kỳ quái, cả dòng họ đến ở vài trăm năm không phát, mà có người vừa mới dọn đến thì đã sinh quý tử thậm chí qua đường tạm trú một thời gian đã phát phúc. Cho nên mới nói Đất Phú Quý cũng cần xem cơ duyên. Đặc biệt nói rõ hiện nay lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Nguyên Pháp dùng để đoán xem Tọa Hướng với nguyên vận có hay không phù hợp, lại đoán Long vận thế vận tất vạn vạn không thể, Chân Long hành vận không thể theo Tam Nguyên (Thiên vận), mà theo Can Long và Can Khôn Đại Quái, Tam Nguyên Cửu vận cũng là Thiên tinh Lưu Hành vận, đối ứng là Thiên Khí (Ngoại Khí), mà Càn khôn Đại Quái lại là Địa Long Hành Vận, đối ứng là Địa Khí (Nội Khí), chỉ có khi nọi Khí và Ngoại Khí đồng thời cùng đến giao hỗ cảm ứng tương sinh thì Chân Long mới có thể đại nhả Tinh Hoa, Tinh Hoa Quý Nhân ứng theo vận mà sinh. Đó là dó Tiên Hiền 10 đời Tổ Sư của bản môn tập hợp trí tuệ hàng trăm năm tổng kết kinh nghiệm mà có, tức cũng có rất nhiều các Phong thủy Đại Gia và Quốc Sư trong triều đã không hề được nhìn qua. Đến như Thiên vận Địa Vận khi nào cùng đến, Thiên Khí Địa Khí giao ở điểm nào (Phương vị), làm thế nào để tính toán thì đó là một bí mật, không có được Pháp đó thì không thể nào biết! Theo Tiên Sư nói Cổ Thánh Hiền cũng là xem tượng trời rồi đoán định, có thể thấy đó là Thiên Cơ Cấm Học không phải sức người có thể thấy được! 
Đất lớn bất kể là Quý Cục, Phú Cục hoặc Cục Hào Cường, đều không thể coi thường lấy dùng loạn, thuộc Sơn Xuyên Kỳ Trân thì triệu người mới có một mới dùng được, trong nghìn năm chỉ được vài chỗ, để được phú quý cũng còn rất nhiều hiểm hung, đùa bỡn không tốt cầu phúc tất thành họa, thực tế là được không đủ mất cho nên hầu như bất lợi cho người. Đến như đất lớn đại phú đại quý ở thế gian có rất ít, trong khoảng hơn trăm năm mới có thể thấy một lần Vận Địa Vận Thế với Nhân Đức hợp một, không thấy không cầu là tốt, bởi vì đa số các đất kiểu đó đều sinh ra các bậc danh thần, vũ tướng, đại nho Trị Quốc An Bang, anh hùng hào kiệt hoặc đều là vua một nước mới có thể dùng, chứ còn Phong Thủy Sư và các cá nhân chớ mơ tưởng. Vì sao như thế, có người cho rằng như thế là chỉ có ở xã hội Phong Kiến, kỳ thực không phải vậy, thí tưởng như chỉ có khi sau một thời gian quốc gia động loạn và xã hội phát sinh biến động lớn thì mới xuất hiện nhân tài kiệt xuất, họ là người sẽ nắm trong tay đại quyền quyết định sự hưng suy của quốc gia, sinh tử an nguy của nhân dân. Thế nên trong thiên hạ loại Địa Sư loạn dùng loạn tác có rất nhiều, họ có thể tác đọng đến một đất, làm một huyệt là Thiên Hạ Đại Loạn, hỏi rằng con cháu mai này phải làm sao !?
Người xưa có cảnh cáo rằng : Âm Dương Bất Khán Chân Long Địa, Khăn Liễu Chân Địa Nhãn Tình Hạt !cổ nhân thực là đã cảnh cáo không nên đem sự an nguy của quốc gia, nhân dân cùng sự phúc đức trường tồn của con cháu mình ra làm trò đùa, từ xưa đã có vô số các ví dụ về vẫn đề này, phàm không tuân thủ tích đức thì tất sau này tuyệt hậu, nếu giữ gìn được thì có thể giữ gìn con chàu sau này bình an nhân đinh hưng vượng. Điều này thế nhân không thể không nhớ. Đến như nghìn năm một Thánh Hiền ( Văn Vương – Khổng Tử - Chu Tử), năm trăm năm một Minh Quân (Là Vua Khai Quốc Trị Loạn Hưng Thế, Công Nghiệp Truyền Nghìn Năm, Đức Lớn Ra Khắp Bốn Biển) tất là thừa người Thiên Vận Địa Vận Thế Vận ứng thời mà sinh, trời giáng tượng, đất ứng vận, người theo sáng sủa, chẳng phải do sức người mà có, không ngờ không nói, ngẫu nhiên gặp được dấu tượng cũng không được lan truyền, nếu không tất tai họa liên miên.
Như có người hỏi, đã có sự cấm kỵ thế thì làm sao để dùng Phong Thủy, kỳ thực là cổ nhân đã cho chúng ta về phương pháp giải quyết, từ đời Thanh đến nay có lưu hành Tam Nguyên Huyền Không Đại Vận Pháp cũng có thể lấy vận dụng( Phương pháp tại hướng chọn lựa ngày giờ của Tam Hợp Phái cũng có thể vận dụng), chỉ cần hợp vận hợp thủy Cục Hình Cục lại được năm tốt, ngày tốt tức tính là đại cát, không cần phải tìm tòi Long Huyệt, tức không cần hợp thủy cục không cần chọn lựa đại vận, chỉ cần chọn lựa giữa Trạch Vận với vận trình Mệnh Chủ tương sinh tương hợp cùng năm tốt ngày tốt xây dựng hoặc vào ở cũng có thể thu được đại lợi. Vì sao lại thế, cần biết rằng hiện nay xã hội vận động biến đổi rất nhanh, tuy nhiên Thiên Vận (Tam Nguyên Đại Vận cùng Lưu Niên) không đổi, nên tủy xem hoàn cảnh mà cải biến, sông lớn, đường đi, cầu cống, hầm ngầm đều được con người tạo ra rất nhanh, quy luật vận hành của Địa Vận Địa Khí cũng theo đó mà cải biến, không chỉ nên chấp vào cổ pháp, nếu không ứng dụng sẽ không chuẩn xác sẽ phát snh hung họa ! 
Ở đây tôi đã đưa toàn bộ các kiến thức tổng hợp bí truyền của các bậc Tiên Hiền Thánh Sư không lưu dấu điều gì, kết hợp với thực tế xã hội ngày nay làm sự tổng kết cho hậu thế, hy vọng có thể đối với người đời có sự giúp đỡ và chỉ rõ.
5. Đất Đại Quý Không Quá Hai Triều, Đất Đại Phú Không Quá Ba Đời.
Lại nói về các quan chức lớn nắm đại quyền thế cũng không thể vượt qua 2 triều đại khác nhau, đấy là cảnh báo người đời khi đắc quyền nên chú ý giữ gìn tự mình xem xét không nên dựa vào quyền lực mà lừa dối thế nhân. Ba đời có thể hình dung quãng trăm năm, ở đây nói rõ giàu nghèo cũng không quá trăm năm không biến đổi, cảnh báo chúng ta chớ vì giàu có mà bất nhân, cần lúc ở yên nhớ khi nguy cấp.
6. Phong Thủy Sư Chỉ Nên Làm Công Thần Chớ Nên Làm Tội Nhân.
Thuật Phong Thủy vốn là vũ khí để điều tiết sự sai lạc của tự nhiên, quân bình sự giàu nghèo trong xã hội, cũng lại là lợi khí làm cho tăng tốc phát triển của xã hội. Phong Thủy một mặt là vì đại chúng xã hội tạo phúc, mặt khác cũng lại là tăng thêm sự tranh đấu phân hóa giàu nghèo trong xã hội, cho nên đất tốt cần thận trong mà điểm, nếu để rơi vào tay kẻ gian tà là tạo tội vậy. Thận Trọng.
7. “Một Người Ngồi Kiệu Mấy Người Khiêng, Một Nhà Phú Quý Nghìn Nhà Nghèo, Một Tướng Nên Công Vạn Xương Phơi !”
Nguyên lý chọn phúc của Phong Thủy giống như nguồn nước hoặc sức học giống như cách làm cho cán cân giữ được thăng bằng, là đem lực lượng vật chất giàu có chia làm làm chuyển dịch tụ tập mà thành kết quả có được sự cân bằng tương đối, đối với một số người giàu có cần khiến họ bỏ ra một phần làm việc thiện để duy trì, cho nên mới nói Đại Phong Thủy mà không có Đại Phúc Đức thì không thể hưởng dụng, nếu có ngẫu nhiên cưỡng làm hoặc có được thì phúc cũng chẳng lâu dài, đó là nguyên lý chuyển hóa năng lượng của Phong Thủy( Tạm gọi là Quy Luật Phong Thủy Lực Học) nó cũng giống như nguyên lý Tàng Phong Tụ Khí của Phong Thủy Học. Chẳng qua toàn bộ mà nói Thuật Phong Thủy tức tại trong vô hình thúc đẩy xã hội phát triển, cân bằng điều chỉnh chuyển hóa sự giàu nghèo trong xã hội, ở vào một cấp độ cao nó có lợi cho sự bảo hộ hoàn cảnh nói chung.
8. Trồng Cây Được Mát, Khơi Nước Mở Nguồn, Mời Người Xem Đất Nên Có Hậu Tạ. 
Phàm việc gì cũng có sự tác dụng của Nhân Quả, chọn lựa một chỗ Phong Thủy tốt đương nhiên cần có sự bắt đầu tốt thì mới thu hoạch, các Thầy Phong Thủy Chân Chính thay người làm Phúc (Phong Thủy Bậc Cao) tức là đã tự mình làm tiêu giảm Phúc Đức của mình (Âm Đức), bởi vì khi tạo phúc cho một người thì đồng thời trong vô hình huyền minh cũng làm tổn hại lợi ích một số người, tiết lộ Thiên Cơ Địa Lý phản bội lại quy luật sự vận chuyển trong tự nhiên, đầu tiên đã làm tổn hại Phúc Lực của bản thân và hậu thế, (Có một số kẻ tục nhân không hiểu biết về Phong Thủy đi lừa đảo người trong thiên hạ là đã tự chôn mất Đạo Đức Thiên Lương vậy thì tất ngày tuyệt diệt không xa) cho nên nói đối với Phong Thủy Sư cần có sự hồi báo tương ứng nhất định. Hậu tạ ít nhiều là ở nơ mỗi người, nếu không tất cả hai bên cùng bất lợi, sự ứng nghiệm không xa gì. Thế nhưng người thường không hiểu lại hay cho rằng ấy là lừa đảo lấy tiền bạc.
10. Phong Thủy Chuyển Luân Lưu, Phú Quý Đều Có Thời. 
Đạt được Phong Thủy tốt rất cần không “Đắc ý vong hình” là làm không kịp, Khí Vận có số định, vinh khổ cũng có thời; không vì có được sự trợ giúp của Phong thủy đến khi sa vào cảnh khốn cùng lại oán thán, chỉ cần nỗ lự sẽ đến hồi thông thoáng, thời đến vận chuyển, Phong Thủy sẽ giúp rập cho ta.
Mười Điều Đại Thiết Luật
“Ngũ Bất – 5 Điều Không Được” : 
Không vọng ngôn, nói bừa, nói quá, nói vô căn cứ. 
Không vọng tác, làm bừa, làm ẩu, làm hại người.
Không tự dùng cho mình; Không điểm Chân Long Càn Khôn Huyệt; (Giữ lại cho người có nhân duyên, do Trời Xanh định rồi). 
Không tiết lộ Thiên Cơ; tốt nhất là tại các đất chưa phát tích thì không được tiết lộ trước bí mật cơ trời; đề phòng người làm hỏng.
“Ngũ Yếu – 5 Điều Cần Phải Có” :
Cần vì người mà làm điều Phúc; 
Cần giúp nghèo cứu yếu; 
Cần trừng ác dương thiện; 
Cần bảo hộ địa mạch; 
Cần cẩn thận dạy học trò;
Tích Đức Và Tổn Đức
Tích Đức: Tức là vì người làm Phúc; giúp nghèo trợ khổ; trừng ác dương thiện; cứu người khi nguy khốn; không lừa không dối; giữa miệng như bình; phúc đức tương đương; bảo vệ đất có công; khuông phù xã tắc. 
Tổn Đức: Mê người làm hại; Phúc Đức không cần; tham tự lấy dùng; mang tâm hại người; Dối người gạt tiền; Đấu Pháp Phong thủy; Giúp kẻ ác làm điều tai ngược; loạn điểm Long Huyệt; tiết lậu Địa mạch. 
Chú ý : Cổ truyền loạn điểm Chân Long Chân Huyệt và phá hoại Long mạch là đệ nhất đại kỵ của Phong Thủy Sư, với mê hoặc người với làm hại người lấy tiền cũng tính gấp trăm lần. Bởi vì trời đất để tạo ra được một nơi Long Huyệt cần đến cả vạn triệu năm, tổn hại khó phục hồi, tiết thoát cũng cần đến vài trăm nghìn năm mới khôi phục được, nhớ điều đó nên cần thận trọng! Tất cả sự tạo táng đều nên lấy Sơn Hướng Nguyên Vận và năm tháng ngày giờ tốt là thu cát lợi, nên hạn chế sử dụng các Long Huyệt, nếu như gặp được Chân Long Chính Huyệt thì chớ coi thường thu dùng.
TTĐ

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Phần xem “Bản mệnh” cho từng tuổi:


Phần xem “Bản mệnh” cho từng tuổi:
* Bản mệnh Kim, gồm có các tuổi:
Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985; Nhâm Thân 1992 & Quý Dậu 1993; Canh Thìn 2000 & Tân Tỵ 2001.
* Bản mệnh Hỏa gồm có các tuổi:
Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935; Mậu Tý1948 & Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987; Giáp Tuất 1994 & Ất Hợi 1995; Mậu Tý 2008 & Kỷ Sửu 2009.
* Bản mệnh Thủy gồm có các tuổi:
Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983; Bính Tý 1996 & Đinh Sửu 1997; Giáp Thân 2004 & Ất Dậu 2005.
* Bản mệnh Thổ gồm có các tuổi:
Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991; Mậu Dần 1998 & Kỷ Mão 1999; Bính Tuất 2006 & Đinh Hợi 2007.
* Bản mệnh Mộc gồm có các tuổi:
Nhâm Ngọ 1942 & Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 & Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 & Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý1972 & Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 & Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 & Kỷ Tỵ 1989; Nhâm Ngọ 2002 & Quý Mùi 2003; Canh Dần 2010 & Tân Mão 2011.
Nguồn: Tổng hợp.

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2018

LOAN ĐẦU


Loan đầu:
2/8/2011 1:47:01 PM
Vấn đề là tìm nơi tụ Long.
Nguyên khí còn gọi là Long, Như đã nói trên đây, Long là một dạng Khí Tiên thiên, có tác dụng rất cơ bản đến sự sống các sinh vật. Vấn đề là tìm nơi tụ Long. Để làm việc này cần tìm gốc của Long. Trước hết Nguyên khí hay Khí Thiên giáng từ Trời xuống các đỉnh núi cao theo hình xoắn, như đỉnh núi Hymalaya, núi Tản Viên, núi Tam Đảo…Con Người có đầu và huyệt Bác Hội để nhận (hút) khí Thiên vào trong cơ thể mình, thì Quả đất có những đỉnh núi cao cũng để nhận khí Thiên vào lòng đất đai. Nơi Long xuất phát gọi là Tổ Sơn, nơi Long kết thúc gọi là Minh Đưòng.
Long phải có nước đi theo, vì nước là môi trường hấp thụ Long (ở nhiều nước, các nhà khoa học có nghiên cứu các đặc tính của nước có Trường sinh học, tức là có Long. Nước có chứa Long có sức căng mặt ngoài tăng lên). Ngoài Tổ Sơn, Long còn có thể có những xuất phát điểm khác gọi là Thiếu Sơn. Như với Nguyên khí – Long mang theo bởi dòng Cửu Long Giang thì Hymalaya là Tổ Sơn, còn dãy Trường Sơn là Thiếu Sơn. Như thế đất nước ta là một Minh Đường rộng lớn mà Nguyên khí được cung cấp bởi hai loại anten lớn là Hymalaya và dãy Tràng Sơn. Nguyên khí - bằng một cơ chế nào đó - được chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau của đất nước ta như Núi Ba Vì và các nơi thờ Thánh Tản Viên , Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Thất Sơn, Yên Tử Sơn…
Các hình thể huyệt kết Có bốn hình thể huyệt kết như sau:( nhìn hình trên )
Huyệt hình Oa thì tròn, huyệt hình Kiềm thì dài, huyệt hình Nhũ thì tròn, huyệt hình Đột thì dài. Các huyệt Oa và Kiềm thì phần nhiều ở chỗ có mạch sơn cước (ở núi đồi). Các huyệt Nhũ và Đột thường ở chỗ các mạch bình dương (ở những nơi có các độ cao chỗ thấp ít khác nhau, như ở các ruộng). Các huyệt trên còn gọi là kết Oa, kết Kiềm, kết Nhũ, kết Đột.
Huyệt ở chỗ quá cao thì sát, ở chỗ quá thấp thì yểu. Nơi núi cao, cần điểm huyệt ở nơi vùng thấp, để tránh gió, do ở nơi cao gió sẽ tán khí. Trái lại ở những nơi bình dương, cần điểm huyệt ở chỗ cao nhất, như tại các gò cao, tránh thuỷ phá. Nếu có sắc thổ đẹp, có cây lá xanh tươi thì việc điểm huyệt ở nơi đó càng tốt. Những nơi bằng phẳng, xung quanh có thành cao là nơi điểm huyệt tốt.Ở những núi đá không có huyệt. Nhưng nếu ở đó có chỗ vũng Oa thì nên điểm huyệt ở đó.
Sơn thuỷ pháp là cách xem tướng đất để biết về người có liên quan. Sơn chủ người, thuỷ chủ tiền của. Núi đầy đặn sẽ sinh người mập mạp, núi đơn bạc sẽ sinh người gày ốm. Núi tinh sinh người tốt giỏi, núi ô trọc sinh người u mê. Thuỷ tĩnh thì sinh người thanh tú, thuỷ chảy xiết thì sinh người nghèo khổ. Thuỷ dồn tụ thì sinh người giàu có. Sơn lởm chởm là nơi có ác khí. Thuỷ chảy kêu réo là nơi hung. Có sơn nhưng không có thuỷ gọi là cô sơn. Có thuỷ nhưng không có sơn gọi là cô thuỷ.
Chỗ nước tụ trước huyệt gọi là Minh Đường. Có thể có một hay nhiều Minh Đường. Minh Đường gần huyệt nhất gọi là Nội Đường, Minh Đường xa huyệt nhất gọi là Ngoại Đường, Minh Đường ở giữa gọi là Trung Đường. Có Minh Đường mới có huyệt kết, nếu không thì sẽ không có huyệt kết. Minh Dường ngay ngắn thì con cháu hiền tài. Minh Đường nghiêng lệch thì con cháu du đưng, nghèo khó. Minh Đường có nước tụ như nhà có chứa ngọc, còn Minh Đường có nước tiêu tan thì như nhà tán tài, điều đáng sợ nhất là Minh Đường có thể cạn nước về mùa thu. Minh Đường nằm nghiêng thì tuy là quan được nhưng trước sau cũng bị cách chức hay thoái chức. Minh Đường gần huyệt thì phát sớm. Minh đường xa huyệt thì phát chậm. Minh đưòng thụ nước bên trái thì trai trưởng phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước (còn nữ thì sao?) Nếu nước chảy từ Tây Bắc đến Đông Nam, thì cần cho huyệt hướng về phía nước tới, tức là về phía Tây Bắc, để hứng được tất cả nước từ xa đến.
Xung quang huyệt có thể có những giải đất bao bọc huyệt, bảo vệ huyệt như chân tay bảo vệ cơ thể. Giải bên trái gọi là Thanh Long hay Long, có nam tính. Còn giải bên phải gọi là Bạch Hổ hay Hổ và có nữ tính (trai trái gái phải). Long cần phải dài, Hổ cần phải ngắn. Long, Hổ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến con cái. Chẳng hạn Long chủ sinh con trai, văn quan, Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng. Nếu Long (nam) ôm lấy Hổ (nữ) thì địa thế rất quý. Còn nếu Hổ (nữ) ôm lấy Long (nam) thì địa thế không hoàn chỉnh. Nhiều Long, nhiều Hổ thì phát nhiều đời. Đơn Long, đơn Hổ thì chỉ phát một đời. Hổ từ bên phải đến, kéo dài qua bên trái là Hổ nghịch. Long từ bên trái kéo dài qua bên phải là Long nghịch Điều kị nhất là Long quay lưng lại, còn Hổ thì lại vươn đầu lên, gia đình sẽ sinh nghịch nhân.
Huyền Vũ là đồi, núi ở đằng sau huyệt. Huyền Vũ tròn hay vuông thì gia đình giàu có và thọ. Kiêng kỵ: Huyền Vũ thấp mỏng, bị gió thổi. Huyền Vũ không được thô và lấn át huyệt. (Châu Tước là các gò đống ở trước huyệt)
Án có nghĩa là một địa thế, như một bán giấy ngồi trước mặt người ngồi. Án không nên quá cao hoặc quá thấp. huyệt gần án thì phát nhanh hơn là khi xa án. Cổ nhân xem huyệt là chủ, án là khách, khách chủ tương kính nhau mới là tốt.
Đất màu sắc hồng hoàng, sáng tươi, mềm dẻo, nửa nạc nửa mỡ thì tốt. Đất đen, khô, rời vụn thì xấu, không có khí mạch. Đất ngạnh, có đá cứng thì rất hung. Nếu cả vùng đất đều bình thường như nhau, chỉ có một chỗ khác mịn, tươi hơn thì đó là đất tốt. Đất khi khai huyệt có sinh vật như rùa, cá – tinh thuỷ của Thiên Địa – là đất tốt. Trái lại, đất có rắn, chuột, sâu bọ, kiến là đất xấu.
TỔ SƠN: Hy Mã Lạp Sơn (Nguyên Khí đi theo sông Cửu long): Chú ý: ..."phần này chưa chính xác…phải khảo cứu lại do có sự nhầm lẫn".
THIẾU SƠN: Dãy Trường Sơn (Nguyên khí đi theo song Cửu Long)
ĐỊA LINH CHÍNH ĐỂ DỰNG CÁC THỦ ĐÔ: Thăng Long (Rồng thăng), cố đô Huế
MINH ĐƯỜNGTHANH LONG, BẠCH HỔ: Biển Đông với chỗ thuỷ tụ của nó.
ÁN: Có người cho rằng án của Việt nam chính là Philippines (st)


Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2018

NHÀ 207 V8





Con số, màu sắc, cây và cá cảnh.


Con số, màu sắc, cây và cá cảnh.
Nếu có dịp vào nhà người Hoa và để ý tới cách bài trí nhà cửa cũng như việc sử dụng các vật dụng trang trí, bạn sẽ phát hiện được một số quy tắc cần được áp dụng trong Phong thủy, từ việc lựa chọn các con số, màu sắc tới trồng cây, nuôi cá…
Theo Phong thủy, mỗi con số đều hàm chứa một ý nghĩa nào đó về mặt nghề nghiệp và kinh doanh. Đồng thời, mỗi người đều có những con số may mắn và số không may mắn. Người Hoa đặc biệt quan tâm đến những con số như số điện thoại, số nhà, số xe, số tài khoản và không bao giờ dùng những con số không may mắn trong công việc kinh doanh của mình.
Người Hồng Kông xem số 8 là số may mắn. Đối với số điện thoại, số thẻ tín dụng và số tài khoản, người Hồng Kông muốn con số cuối cùng là số 8. Họ tin rằng điều này sẽ mang lại may mắn về mặt tài chính. Nếu đứng trước số 8 là số 6, 7, 8 hoặc 9 thì vận may đó tăng gấp đôi.
Người Hoa cho rằng, số 8 là một trong những con số may mắn nhất. Vì vậy, họ rất muốn bảng số xe, số nhà… có những con số này.
Ngoài số 8, các số 1, 6, 9 cũng là những con số may mắn. Nếu đứng trước những số này là số 4, thì sẽ được may mắn nhiều hơn. Trong đó, số 9 là con số đặc biệt may mắn vì số 9 nhân với bất cứ số nào đều ra một kết quả mà tổng của nó là 9 (ví dụ 9 x 4 = 36 và 3 + 6 = 9), đồng thời số 9 tượng trưng cho sự tròn đầy, viên mãn của trời (Thiên) và đất (Địa).
Người Hoa cho rằng số xui nhất là số 4. Bởi vì, số 4 phát âm nghe gần giống như chữ tử, có nghĩa là chết. Vì vậy, bất cứ dãy số nào kết thúc bằng số 4 là đại kỵ. Ngoài ra, những con số không may mắn dựa trên các sao Phi Tinh còn là số 5, số 2 và bất cứ dãy số nào có số 2, số 3 đi kèm nhau. Tuy nhiên, một số người khác cho rằng số 2 là số tốt vì nó mang ý nghĩa dễ dàng, thuận lợi.
Màu sắc và vận may
Trong Phong thủy, màu đen tượng trưng cho nước và màu trắng tượng trưng cho vàng hoặc kim loại. Màu đen không nên dùng cho trần và mái nhà vì màu đen ở trên đầu có ý nghĩa không tốt. Bạn cũng không nên dùng thảm màu đen hoặc sơn màu đen để sơn tường.
Bạn có thể quét tường và trần nhà bằng màu trắng vì màu trắng là cực dương (đối nghịch với màu đen là cực âm), tượng trưng cho sự thịnh vượng. Có người cho rằng màu trắng là màu tang tóc, nhưng thật ra, màu trắng tinh khiết không có ý nghĩa đó. Màu trắng tang tóc là màu vải sô, màu trắng nhờ nhờ, trắng ngà hoặc trắng hơi xám. Những màu này là màu âm, còn màu trắng sáng là màu dương.
Trần và tường nhà của văn phòng quét sơn màu trắng là rất tốt. Tiếp đến, bạn chỉ cần trang trí bằng màu đỏ, màu xanh lá cây và xanh dương cho phù hợp với các hướng của la bàn là được (chụp nhà tường trắng).
Màu đỏ là màu của hướng Nam. Quét màu đỏ trên tường phía Nam sẽ mang lại tài lộc. Ngoài ra, dùng màu hồng đào ấm áp ở hướng Nam và hướng Tây cũng rất tốt. Bạn có thể áp dụng màu này cho giấy dán tường, màn, thảm và tất cả những vật trang trí trong văn phòng.
Xanh lá cây là màu của tiền bạc. Vì vậy, khi hướng Đông Nam được kích hoạt thì sẽ phát huy hiệu quả rất lớn. Màu này cũng có thể áp dụng cho hướng Đông. Bạn nên lưu ý rằng màu xanh lá cây tươi sáng tượng trưng cho mùa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc. Bạn có thể dùng cây giả có lá màu xanh lá cây tươi sáng đặt trong văn phòng để thu hút dòng luân chuyển tiền bạc được thuận lợi nhất.
Xanh dương là màu của nước. Màu này có tác dụng rất tốt ở góc hướng Đông, Đông Nam và Bắc của văn phòng. Tuy nhiên, bạn không nên lạm dụng quá nhiều màu xanh dương vì quá nhiều nước sẽ gây phản tác dụng, mang lại hiệu quả không tốt.
Trồng cây ở hướng Đông Nam
Cây cỏ phát huy tác dụng rất tốt ở góc Đông Nam của văn phòng. Dù bạn thuộc nhóm hướng Tây hay hướng Đông thì đều có thể kích hoạt năng lượng tốt chủ về tài lộc ở hướng Đông Nam. Đây là góc của Tiểu Mộc, vì vậy nó có giá trị hơn Đại Mộc. Tiểu Mộc được tượng trưng bởi những loại cây nhỏ và có màu xanh lá cây.
Sử dụng cây giả có thể tốt hơn cây khô và nên chọn loại cây có lá tròn, rộng.
Trưng bày biểu tượng cây sồi, (nếu có quả sồi thì càng tốt) ở góc Đông Nam của văn phòng sẽ mang lại những thành công và thịnh vượng trong công việc.
Tránh dùng những loại cây có gai nhọn, đặc biệt không nên đặt những loại cây xương rồng trong văn phòng. Theo Phong thủy, gai xương rồng phát ra năng lượng xấu và sẽ tích lũy theo thời gian, gây ra nhiều điều không tốt trong hoạt động kinh doanh và cho công việc của bạn. Trưng bày xương rồng trong nhà cũng đem lại những ý nghĩa không tốt cho các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, đặt chậu cây hoặc trồng cây xương rồng ở ngoài vườn, ngoài cổng sẽ đem lại ý nghĩa tích cực.
Nuôi cá kim long
Người Hoa ở các nước Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam đã quen với những đặc tính kỳ lạ của cá kim long và nuôi loại cá này rất nhiều. Họ xem loài cá này là cá Phong thủy. Vảy của nó có màu bạc và lấp lánh ánh hồng, tượng trưng cho tài lộc. Khi cá lớn có thể dài đến 90cm.
Cá kim long được xem là cá phát tài. Cho cá kim long ăn sâu nước, cá nhỏ để chúng phát triển và ra nhiều vảy hồng mang lại tài lộc.
Trong văn phòng của doanh nhân nên nuôi một con cá kim long. Không cần trang trí cây cỏ, sỏi cát trong bể cá. Cá kim long sẽ ăn bất cứ thứ gì mà nó thấy. Nên cho cá kim long ăn sâu nước hoặc những loại cá nhỏ để nó phát triển nhanh và có vẩy hồng quý giá. Nếu bạn nuôi cá bằng thức ăn chế biến sẵn thì hãy chọn loại tốt nhất. Khi cá không khỏe mạnh thì nó không mang lại vận may cho bạn. Bạn nên đặt bể cá ở hướng Bắc, Đông hoặc Đông Nam của văn phòng. Cá kim long khi phát triển có kích thước khá lớn. Vì vậy, trước khi bắt đầu nuôi cá, bạn nên tham khảo cách xây bể ở những loại sách dạy nuôi cá cảnh để công việc được thuận lợi và đạt hiệu quả hơn.
Nguồn: Tổng hợp