Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

'Phong thủy luân' dùng không đúng sẽ gặp hại lớn

'Phong thủy luân' dùng không đúng sẽ gặp hại lớn -04.04.2012 18:09
Gần đây, trên thị trường vật khí phong thủy xuất hiện một dòng sản phẩm tên là phong thủy luân. Chúng là những thác nước nhân tạo có mẫu mã phong phú và đầy tính nghệ thuật.
Vì vậy, nhiều người đã mua nó về bày cho… đẹp, mà không biết rằng dùng phong thủy luân tùy tiện có thể làm gia chủ gặp nhiều việc không hay, hoặc bị tổn hại sức khỏe.
Các chuyên gia phong thủy coi Phong thủy luân là một trong những vật khí chủ yếu để kích hoạt dòng khí. Cấu tạo của Phong thủy luân luôn phải có nước kết hợp với ánh sáng của đèn điện bởi nước - thủy mang thuộc tính âm, ánh điện – kim mang thuộc tính dương, là sự kết hợp của Kim sinh Thủy sinh Tài (Tài lộc).
Tuy nhiên, không phải đặt ở đâu Phong thủy luân cũng trở thành vật khí chiêu tài, thôi tài hay điều hoà dòng khí như nhiều người lầm tưởng. Nếu sử dụng Phong thủy luân không đúng cách sẽ có nhiều điều không may mắn đến với bạn, thậm chí còn làm tổn hại đến sức khoẻ của bạn.
Phong thủy luân có khả năng kích hoạt dòng khí nên chỉ thích hợp đặt tại những vị trí thuộc vùng khí trường tốt trong nhà bởi khí trường tốt tạo ra sinh khí, là dạng khí có cấu trúc mở vận động hữu tình, hoành nhiễu quy tụ cần được luân chuyển trong không gian sống. Vậy nên tuyệt đối không được đặt phong thủy luân tại những vùng khí trường xấu vốn tạo ra sát khí, là dạng khí có cấu trúc đóng chỉ thích hợp với vật khí trấn sát dạng tĩnh. Phong thủy luân vẫn là vật khí mang nặng tính thủy thuộc âm nên không đặt ở gần giường ngủ.
Không đặt gần bàn thờ nhất là bàn thờ Nhị vị thần tài - thổ địa, vì bàn thờ nào cũng thuộc hoả.
Khi bài trí phong thủy luân tránh hướng dòng nước đổ ra ngoài cửa vì nước tượng trưng cho tiền bạc, như vậy sẽ bị tán tài. Với những Phong thủy luân có kích thước lớn cần chú ý khi đặt tại các sơn tuổi của người chủ chính trong gia đình, nếu không sẽ mất cân bằng về tứ trụ (trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, trụ giờ của ngày sinh tháng sinh mỗi cá nhân) dẫn đến ảnh hưởng sức khoẻ của người chủ chính.

Description: http://data.xzone.vn/Upload/267/Nam_2012/Thang_4/Ngay_4/ptluan/c43e2b2d6f1.jpg.jpg.jpg

Ví dụ trường hợp một người trạch chủ sinh năm 1972 là năm Nhâm Tý, sinh vào giờ Quý Hợi có thiên can và địa chi của trụ năm và trụ giờ vượng thủy (Thiên can Nhâm, Quý thuộc thủy - Địa chi Tý, Hợi thuộc thủy) do vô tình đặt bình Phong thủy luân khá lớn tại sơn Tý (Nhâm - Tý – Quý thuộc chính Bắc) chỉ sau một tháng liên tục bị sôi bụng, tiêu hoá không tốt, chữa chạy Đông y, Tây y kết hợp suốt sáu tháng liền không hiệu quả. Theo lời tư vấn của chuyên gia, người này đã dời vị trí cũ đặt tại vị trí thích hợp thì chưa đầy một tháng sau, anh ta đã khỏe lại.
Trong phong thủy có khái niệm về tâm của ngôi nhà và các phòng ốc gọi là “hoàng cực”. “Hoàng cực” trong ngôi nhà được phân thành hoàng cực đại và hoàng cực tiểu. Đại hoàng cực là điểm trung tâm của cả căn nhà, tiểu hoàng cực là điểm trung tâm của một căn phòng nào đó. Nguyên tắc phong thủy là tại các “hoàng cực” tuyệt đối không bày biện những vật đặc, nặng, nước vì sẽ lấp mất “huyệt nhãn”, ảnh hưởng tới việc phát sinh khí và khí vượng nên Phong thủy luân không được đặt tại các vị trí này. ST


Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018

60 THÁI TUẾ 六十太歲 VÀ CÁCH TÍNH CÁT HUNG NĂM PHẠM SÁT THÁI TUẾ

60 THÁI TUẾ 六十太歲 VÀ CÁCH TÍNH CÁT HUNG NĂM PHẠM SÁT THÁI TUẾ

 Đẩu Mẫu Nguyên Quân 斗姥元君
 Nguyên thần thái tuế 六十太歲

*Theo phong tục truyền thông cổ đại của nhân gian .tin rằng mỗi năm đều có một vị thần minh coi sóc về mọi sự việc của trần gian. Vị thần cai trị một năm đó gọi là Thái Tuế. Có tát cả là 60 vị Thái Tuế tương ứng với 60 năm của một “hoa giáp” (chu kỳ 60 năm của âm lịch).
Thần Thái Tuế đại đa số là võ tướng xuất thân, nên trong Đạo giáo thần tiên gọi tất cả là “Đại Tướng Quân”. Nhưng mỗi vị Thái Tuế có một phong cách khác nhau, nên việc chấp pháp cũng khác nhau. Từ đó nảy sinh vận trình của mỗi năm sẽ khác nhau.Ví dụ như, Thái Tuế cầm bút thì năm đó có những biến động về chính trị; nếu là Thái Tuế cầm kiếm thì năm đó có nhiều loạn lạc , diễn biến về vũ lực.
Thái Tuế là tên gọi của thần theo Đạo giáo thần tiên , tương truyền là những hung thần của thiên giới. Tín ngưỡng nầy có xuất xứ từ sự sùng bái các sao của người đời xưa. Năm âm lịch thành hình do sự phối hợp giữa 10 can và 12 chi, bắt đầu từ “Giáp Tí” đến cuối 60 năm là “Quý Hợi”(một chu kỳ). Như vậy sẽ có 60 vị Thái Tuế, còn gọi là “Lục thập nguyên thần” hay “Lục thập đại tướng quân”.
*Năm 1190 là năm Canh Tuất, bà Hoàng Thái Hậu Thụy Thánh , mẹ của Kim Chương Tông bị bệnh lâu ngày không khỏi, nên tổ chức “cầu đảo” trị bệnh cho mẹ. Vua cho xây dựng “Đinh Mão Thụy Thánh Điện” (bà mẹ tuổi Đinh Mão) ở Đạo quán . Mục đích là cúng bái vị Thái Tuế năm Đinh Mão gọi là “Lễ Thuận Tinh”, nên Hoàng Thái Hậu được lành bệnh. Vì thế, sau đó cúng bái luôn 60 vị Thái Tuế, cầu cho những năm kế tiếp cũng được tốt lành . Mỗi năm vào ngày mùng tám tháng giêng, đều có tổ chức “ Thuận Tinh Tiết ” (lễ Tết cúng sao). Từ đó, trong dân gian lưu hành rộng rãi việc “cúng sao” mỗi năm.
*Về sau , đời Vĩnh Lạc nhà Minh cho xây dựng Điện Thụy Thánh Bạch Vân Quán ở Đạo quán . Đến đầu đời Thanh, vị Đại Tôn Sư thứ bảy của phái Toàn Chân Long Môn cải danh hiệu lại là “Nguyên Thần Điện”.
*Thái Tuế còn gọi là Thái Tuế Tinh Quân. Về khoa thiên văn, sao Thái Tuế chính là Mộc Tinh trên bầu trời. Chu kỳ của sao Mộc quay quanh Mặt Trời là mười hai năm. Cho nên người xưa gọi sao Mộc là Tuế Tinh hay Thái Tuế, sau phát triển thành Thái Tuế Tinh Quân hay Tuế Quân. Như vậy, tín ngưỡng thờ phụng Thái Tuế có nguồn gốc liên hệ đến các sao trên bầu trời.
*Từ đời Tần, Hán , Thái Tuế được xem là một “hung thần” mà mọi người kính sợ. Có câu :- “Để Thái Tuế hung, phụ Thái Tuế diệc hung” (mạo phạm đến Thái thì bị điều hung, mà nương tựa vào Thái Tuế cũng không hay). Do đó, dân gian tin rằng phương hướng của Thái Tuế là hung phương, cho nên không hướng về phương Thái Tuế, chỉ có thể quay lưng lại là tốt. Không nên động thổ vào phương hướng Thái Tuế của năm đó, nếu phạm sẽ gặp rất nhiều điều không hay. Từ sau đời Nguyên, Minh thì Thái Tuế được cho ghi vào danh sách thờ cúng của triều đình và dân gian để mong cầu “nước yên dân ổn”.
*Câu nói phổ biến : “Thái Tuế đương đầu tọa, vô hỉ khủng hữu họa” (Gặp Thái Tuế chận đầu, nếu không có hỉ sự, tất phải gặp họa). Người mà vận niên phạm Thái Tuế, thì trăm việc không thuận, sự nghiệp bị khó khăn, thân thể đau ốm hoặc bị tai nạn. Muốn cho “tâm an thuận lý” thì người ta đến các Miếu Thờ Thái Tuế để cúng bái, mong nhờ phước lực của Ngài hóa giải điều xấu. Nếu thờ cúng Thái Tuế tại nhà, thì cầu mong được bình an thuận sự, công thương).
*Đến đời Sau , Lưu Tú khởi nghĩa thành công, phong cho các chiến tướng công thần làm “Nhị thập bát tú Thái Tuế”.
*Về sau, có ngài Lục Tục của Đạo Gia xưng tặng những người có đức độ là “Thái Tuế”, được cả thảy là 60 vị.
*Động tác “Bái Thái Tuế” (an vị Thái Tuế) Lục thập thái tuế quản nguyên thần con người dưới nhân gian.
Thái tuế hóa giải nạn kiếp hàng năm bảo hộ nguyên thần cho con người.


Nguyên thần Thái tuế 六十太歲

CÚNG THÁI TUẾ GIẢI HẠN HÀNG NĂM
 1/- Người bị phạm Xung Thái Tuế :( tuổi xung với năm) Có tính đối kháng, tấn công , đánh nhau, còn gọi là “phản ngâm” (theo phong thủy).
Đặc điểm của nó là : – trắc trở khó khăn triền miên, bôn ba vất vả đối phó, làm việc gì cũng không thuận lợi. Gặp trường hợp nầy phải hết sức cẩn thận và hạn chế phạm vi hoạt động, đừng mở mang thêm cái mới.
2/- Người bị phạm Trị Thái Tuế :Phong thủy gọi là “phục ngâm”, sức phá hoại kém hơn trên một chút. Gọi là “Trị Thái Tuế” khi tuổi mình trùng với địa chi của năm đó.
Tính chất: – phiền não kéo dài, ít có thuận lợi suông sẻ. Họa phúc mỗi thứ phân nửa, lúc được lúc mất. Phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt tìm cách vượt qua khó khăn mới được.
3/- Người bị phạm Hình Thái Tuế : – (tuổi nằm trong tứ xung) có ý nói về hình luật hoặc thương tật. Tuổi và năm rơi vào trường hợp “lục hình” với nhau (xem bảng lục hình).
Năm thái tuế: – thị phị khẩu thiệt, tai bay vạ gió, việc đến ngoài ý muốn. Kỵ việc bảo lãnh cho người, lưu ý các hợp đồng ký kết… dễ động đến cửa quan.
Thái Tuế thường cúng ở điện Đẩu Mẫu Nguyên Quân và sáu mươi nguyên thần. Cai quản bản mệnh sáu mươi năm của con người thì công đức, vô tại vô hạn hóa rủi thành may tài lộc hưng vượng.
Chọn ngày lành giờ tốt mà thờ.lễ thái tuế nguyên thần:
Ngày 12 tháng giêng – la thiên tuế
Ngày 3 tháng 3 ngô thiên tuế
Ngày 8 tháng 3 triệu thiên tuế
Ngày 1 tháng 5 Phong thiên tuế
Ngày 5 tháng 5 Hầu Thiên tuế
Ngày 6 tháng 5 Tiết thiên tuế
Ngày 7 tháng 5 Cảnh thiên tuế
Ngày 12 tháng 5 Lư thiên tuế
Ngày 19 tháng 7 Trị niên thiên tuế
Ngày 3 tháng 8 Từ thiên tuế
Ngày 12 tháng 8 Hà thiên tuế
Ngày 9 tháng 9 Đẩu mẫu nguyên quân trị niên thái tuế
Ngày 1 tháng 12 Đàm thiên tuế
Ngoài việc “Bái Thái Tuế”, còn phải đeo một miếng cổ ngọc hoặc dán phù Thái Tuế để hóa giải xấu ác.
Thái Tuế ngoài việc thể hiện vận trình chung của lưu niên năm đó, còn ảnh hưởng đến mệnh vận của con người . Nếu sinh tiêu (tuổi) của người nào không hợp với lưu niên Thái Tuế, gọi là “phạm Thái Tuế”, thì vận trình năm của người đó không tốt, phải dùng phương pháp “Nhiếp Thái Tuế” để hóa giải.
*Trong nội điện của Điện Nguyên Thần ở Bạch Vân Quán Đạo quán , không những thờ 60 vị Thái Tuế mà còn thờ Đẩu Mẫu Nguyên Quân và Tả Phù , Hữu Bật. Căn cứ vào sách Đạo Tạng trong chương Nguyên Thần liệt kê 60 vị Thái Tuế, cùng với tả hữu tổng cộng thành một trăm tám mươi vị, do số 60 nhân 3 mà thành.

 Thái Tuế Nguyên Thần Phù 太歲

1. TÊN THÁI TUẾ 2 HOA GIÁP (120 NĂM) ĐƯƠNG ĐẠI
仙里五雷 顯應壇-殷雷鎮宅 – 中宮秘符)

TT
NĂM
THÁI TUẾ
Âm lịch
Dương lịch
Chữ Hán
Âm đọc
1
Giáp Tý
1924 , 1984
甲子金辨
KIM BIỆN
2
Ất Sửu
1925 , 1985
乙丑陳才
TRẦN TÀI
3
Bính Dần
1926 , 1986
丙寅沈興
THẨM  HƯNG  
4
Ðinh Mão
1927 , 1987
丁卯耿章
CẢNH CHƯƠNG
5
Mậu Thìn
1928 , 1988
戊辰趙達
TRIỆU ĐẠT
6
Kỷ Tỵ
1929 , 1989
己巳郭燦
QUÁCH XÁN
7
Canh Ngọ
1930 , 1990
庚午王清
VƯƠNG THANH
8
Tân Mùi
1931 , 1991
辛未李素
LÝ TỐ
9
Nhâm Thân
1932 , 1992
壬申劉旺
LƯU VƯỢNG
10
Quý Dậu
1933 , 1993
癸酉康志
KHANG CHÍ
11
Giáp Tuất
1934 , 1994
甲戌訾廣
TƯ  QUẢNG
12
Ất Hợi
1935 , 1995
乙亥吳保
NGÔ BẢO
13
Bính Tý
1936 , 1996
丙子郭嘉
QUÁCH GIA
14
Ðinh Sửu
1937 , 1997
丁丑汪文
UÔNG VĂN
15
Mậu Dần
1938 , 1998
戊寅曾光
TĂNG  QUANG
16
Kỷ Mão
1939 , 1999
己卯龔仲
CỦNG TRỌNG
17
Canh Thìn
1940 , 2000
庚辰章德
CHƯƠNG ĐỨC
18
Tân Tỵ
1941 , 2001
辛己鄭祖
TRỊNH TỔ
19
Nhâm Ngọ
1942 , 2002
壬午陸明
LỤC MINH
20
Quý Mùi
1943 , 2003
癸未魏仁
NGUỴ NHÂN
21
Giáp Thân
1944 , 2004
甲申方傑
PHƯƠNG KIỆT
22
Ất Dậu
1945 , 2005
乙酉蔣嵩
TƯỞNG TUNG
23
Bính Tuất
1946 , 2006
丙戌白敏
BẠCH MẪN
24
Ðinh Hợi
1947 , 2007
丁亥封濟
PHONG TẾ
25
Mậu Tý
1948 , 2008
戊子鄭堂
TRỊNH  ĐƯỜNG
26
Kỷ Sửu
1949 , 2009
己丑潘佑
PHAN HỮU
27
Canh Dần
1950 , 2010
庚寅鄔桓
Ổ  HOÀN
28
Tân Mão
1951 , 2011
辛卯范寧
PHẠM NINH
29
Nhâm Thìn
1952 , 2012
壬辰彭泰
BÀNH THÁI
30
Quý Tỵ
1953 , 2013
癸巳徐斝
TỪ GIẢ
31
Giáp Ngọ
1954 , 2014
甲午章誠
CHƯƠNG THÀNH
32
Ất Mùi
1955 , 2015
乙未楊賢
DƯƠNG HIỀN
33
Bính Thân
1956 , 2016
丙申管仲
QUẢN TRỌNG
34
Ðinh Dậu
1957 , 2017
丁酉康傑
KHANG KIỆT
35
Mậu Tuất
1958 , 2018
戊戌姜武
KHƯƠNG VŨ
36
Kỷ Hợi
1959 , 2019
己亥謝燾
TẠ ĐÀO
37
Canh Tý
1960 , 2020
庚子盧超
LƯ SIÊU
38
Tân Sửu
1961 , 2021
辛丑湯信
THANG TÍN
39
Nhâm Dần
1962 , 2022
壬寅賀諤
HẠ NGẠC
40
Quý Mão
1963 , 2023
癸卯皮時
BÌ THỜI
41
Giáp Thìn
1964 , 2024
甲辰李誠
LÝ THÀNH
42
Ất Tỵ
1965 , 2025
乙巳吳遂
NGÔ TOẠI
43
Bính Ngọ
1966 , 2026
丙午文哲
VĂN TRIẾT
44
Ðinh Mùi
1967 , 2027
丁未繆丙
MÂU  BÍNH
45
Mậu Thân
1968 , 2028
戊申喻志
DỤ CHÍ
46
Kỷ Dậu
1969 , 2029
己酉程實
TRÌNH THỰC
47
Canh Tuất
1970 , 2030
庚戌猊秘
NGHÊ BÍ
48
Tân Hợi
1971 , 2031
辛亥葉堅
DIỆP KIÊN
49
Nhâm Tý
1972 , 2032
壬子丘德
 KHÂU ĐỨC
50
Quý Sửu
1973 , 2033
癸丑林朴
LÂM PHIÊU
51
Giáp Dần
1974 , 2034
甲寅張朝
TRƯƠNG TRIỀU
52
Ất Mão
1975 , 2035
乙卯萬清
VẠN THANH
53
Bính Thìn
1976 , 2036
丙辰辛亞
TÂN Á
54
Ðinh Tỵ
1977 , 2037
丁巳易彥
DỊCH NGẠN
55
Mậu Ngọ
1978 , 2038
戊午黎卿
LÊ KHANH
56
Kỷ Mùi
1979 , 2039
己未傅儻
PHÓ THẢNG
57
Canh Thân
1980 , 2040
庚申毛梓
MAO TỬ
58
Tân Dậu
1981 , 2041
辛酉石政
THẠCH CHÍNH
59
Nhâm Tuất
1982 , 2042
壬戌洪克
HỒNG KHẮC
60
Quý Hợi
1983 , 2043
癸亥盧程
LƯ TRÌNH

2. BẢNG TRỊ, XUNG, HÌNH THÁI TUẾ TRONG VÒNG HOA GIÁP
六十甲子年值, 沖, 刑太歲參考



LỤC THẬP HOA GIÁP / TÊN THÁI TUẾ
六十甲子年/太歲姓名
LƯU NIÊN
 流
SINH TIẾU
 生
PHẠM THÁI TUẾ
犯 太 歲
TRỊ
XUNG
HÌNH
甲子金辦
丙子郭嘉
戊子郢班
庚子虞起
壬子邱德
乙丑陳泰
丁丑汪文
己丑潘蓋
辛丑湯信
癸丑林簿
羊 狗
丙寅沈興
戊寅曾光
庚寅鄔桓
壬寅賀諤
甲寅張朝
蛇 猴
丁卯耿章
己卯伍仲
辛卯范寧
癸卯皮時
乙卯方清
戊辰趙達
庚辰重德
壬辰彭泰
甲辰李滅
丙辰辛亞
己已郭燦
辛已鄭祖
癸已徐舜
乙已吳逐
丁已易彥
虎 猴
庚午王清
壬午陸明
甲午張詞
丙午文折
戊午姚黎
辛未李素
癸未魏明
乙未楊賢
丁未僇丙
己未傅稅
牛 狗
壬申劉旺
甲申方傑
丙申管仲
戊申俞忠
庚申毛倖
虎 蛇
癸酉康忠
乙酉蔣耑
丁酉康傑
己酉程寅
辛酉文政
甲戌誓廣
丙戌向般
戊戌姜武
庚戌化秋
壬戌洪范
牛 羊
乙亥伍保
丁亥封齊
己亥謝壽
辛亥葉堅
癸亥虞程


Nguyên thần thái tuế 六十太歲
Thái Tuế :
(太歲): Mộc Tinh (木星, Jupiter), còn gọi là Tuế Tinh (歲星), Thái Âm (太陰), Tuế Âm (歲陰), Tuế Quân (歲君), Thái Tuế Tinh Quân (太歲星君), là tên gọi của vị thần trong Đạo giáo thần tiên Cổ đại . Ngày xưa ngôi sao này được dùng để đếm tuổi nên có tên gọi như vậy, về sau linh ứng thành tín ngưỡng thần linh.
Thái Tuế còn là tên của một trong Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, với câu kệ là: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện. Trong dân gian thường có từ “phạm Thái Tuế (犯太歲)”, “xung Thái Tuế (衝太歲)”, “hình Thái Tuế (刑太歲)” hay “thiên xung Thái Tuế (偏衝太歲)”. Tỷ dụ như năm nay là năm con Tỵ (巳, con rắn), người tuổi con rắn là phạm Thái Tuế, tuổi Hợi (亥, con heo) là xung Thái Tuế; tuổi Thân (申, con khỉ) và Dần (寅, con cọp) là thiên xung Thái Tuế. Vì vậy, có câu ngạn ngữ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, vô hỷ khủng hữu họa (太歲當頭坐、無喜恐有禍, Thái Tuế trên đầu ngự, chẳng vui e có họa).” Cho nên, người ta có tục lệ An Thái Tuế (安太歲), tức cúng sao giải hạn, cầu nguyện được vạn sự bình an, cát tường. Ngay từ buổi đầu, tục lệ An Thái Tuế rất giản dị. Tín đồ nào muốn cúng An Thái Tuế thì nên nhân dịp trước hay sau tiết Xuân, lấy giấy màu hồng hay vàng viết lên dòng chữ như “Bản  niên Thái Tuế Tinh Quân đáo thử (本年太歲星君到此, năm nay Thái Tuế Tinh Quân đến đây)”, “Bản  niên Thái Tuế Tinh Quân thần vị (本年太歲星君神位, thần vị của Thái Tuế Tinh Quân năm nay)”, “Nhất tâm kính phụng Thái Tuế Tinh Quân (一心敬奉太歲星君, một lòng kính thờ Thái Tuế Tinh Quân)”, đem dán trong nhà, hằng ngày dâng hương cầu khấn. Đến cuối năm, nên đem giấy đó ra đốt với ý nghĩa là “tiễn Thần lên Trời.” Tương truyền trong vòng 60 năm, mỗi năm Trời phái một vị thần phụ trách năm ấy, quản lý toàn bộ việc phước họa của con người. Cho nên, trong thời gian 60 năm ấy có 60 vị Thái Tuế. Tín ngưỡng này có từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 220-589), và đến đầu thời nhà Thanh (清, 1616-1911) thì có tên họ rõ ràng của 60 vị thần Thái Tuế Tinh Quân. Tên của mỗi vị ứng vào các năm như sau:

(1) Thái Tuế năm Giáp Tý là Kim Biện Tổ Sư (金辦祖師),
(2) Thái Tuế năm Ất Sửu là Trần Tài Tổ Sư (陳材祖師),
(3) Thái Tuế năm Bính Dần là Đam Chương Tổ Sư (耿章祖師),
(4) Thái Tuế năm Đinh Mão là Trầm Hưng Tổ Sư (沉興祖師),
(5) Thái Tuế năm Mậu Thìn là Triệu Đạt Tổ Sư (趙達祖師),
(6) Thái Tuế năm kỷ tỵ là Quách Xán Tổ Sư (郭燦祖師),
(7) Thái Tuế năm Canh Ngọ là Vương Thanh Tổ Sư (王清祖師),
(8) Thái Tuế năm Tân Mùi là Lý Tố Tổ Sư (李素祖師),
(9) Thái Tuế năm Nhâm Thân là Lưu Vượng Tổ Sư (劉旺祖師),
(10) Thái Tuế năm Quý Dậu là Khang Chí Tổ Sư (康志祖師),
(11) Thái Tuế năm Giáp Tuất là Thí Quảng Tổ Sư (施廣祖師),
(12) Thái Tuế năm Ất Hợi là Nhiệm Bảo Tổ Sư (任保祖師),
(13) Thái Tuế năm Bính Tý là Quách Gia Tổ Sư (郭嘉祖師),
(14) Thái Tuế năm Đinh Sửu là Uông Văn Tổ Sư (汪文祖師),
(15) Thái Tuế năm Mậu Dần là Tằng Quang Tổ Sư (曾光祖師),
(16) Thái Tuế năm Kỷ Mão là Long Trọng Tổ Sư (龍仲祖師),
(17) Thái Tuế năm Canh Thìn là Đổng Đức Tổ Sư (董德祖師),
(18) Thái Tuế năm Tân Tỵ là Trịnh Đán Tổ Sư (鄭但祖師),
(19) Thái Tuế năm Nhâm Ngọ là Lục Minh Tổ Sư (陸明祖師),
(20) Thái Tuế năm Quý Mùi là Ngụy Nhân Tổ Sư (魏仁祖師),
(21) Thái Tuế năm Giáp Thân là Phương Kiệt Tổ Sư (方杰祖師),
(22) Thái Tuế năm Ất Dậu là Tương Sùng Tổ Sư (蔣崇祖師),
(23) Thái Tuế năm Bính Tuất là Bạch Mẫn Tổ Sư (白敏祖師),
(24) Thái Tuế năm Đinh Hợi là Phong Tề Tổ Sư (封齊祖師),
(25) Thái Tuế năm Mậu Tý là Trịnh Thang Tổ Sư (鄭鏜祖師),
(26) Thái Tuế năm Kỷ Sửu là Phan Tá Tổ Sư (潘佐祖師),
(27) Thái Tuế năm canh dần là Ổ Hoàn Tổ Sư (鄔桓祖師),
(28) Thái Tuế năm Tân Mão là Phạm Ninh Tổ Sư (范寧祖師),
(29) Thái Tuế năm Nhâm Thìn là Bành Thái Tổ Sư (彭泰祖師),
(30) Thái Tuế năm Quý Tỵ là Từ Hoa Tổ Sư (徐華祖師),
(31) Thái Tuế năm Giáp Ngọ là Chương Từ Tổ Sư (章詞祖師),
(32) Thái Tuế năm Ất Mùi là Dương Tiên Tổ Sư (楊仙祖師),
(33) Thái Tuế năm Bính Thân là Quản Trọng Tổ Sư (管仲祖師),
(34) Thái Tuế năm Đinh Dậu là Đường Kiệt Tổ Sư (唐傑祖師),
(35) Thái Tuế năm Mậu Tuất là Khương Võ Tổ Sư (姜武祖師),
(36) Thái Tuế năm Kỷ Hợi là Tạ Đảo Tổ Sư (謝燾祖師),
(37) Thái Tuế năm Canh Tý là Ngu Khởi Tổ Sư (虞起祖師),
(38) Thái Tuế năm Tân Sửu là Dương Tín Tổ Sư (楊信祖師),
(39) Thái Tuế năm Nhâm Dần là Hiền Ngạc Tổ Sư (賢諤祖師),
(40) Thái Tuế năm Quý Mão là Bì Thời Tổ Sư (皮時祖師),
(41) Thái Tuế năm Giáp Thìn là Lý Thành Tổ Sư (李誠祖師),
(42) Thái Tuế năm Ất Tỵ là Ngô Toại Tổ Sư (吳遂祖師),
(43) Thái Tuế năm Bính Ngọ là Văn Triết Tổ Sư (文哲祖師),
(44) Thái Tuế năm Đinh Mùi là Mậu Bính Tổ Sư (繆丙祖師),
(45) Thái Tuế năm Mậu Thân là Từ Hạo Tổ Sư (徐浩祖師),
(46) Thái Tuế năm Kỷ Dậu là Trình Bảo Tổ Sư (程寶祖師),
(47) Thái Tuế năm Canh Tuất là Nghê Bí Tổ Sư (倪秘祖師),
(48) Thái Tuế năm Tân Hợi là Diệp Kiên Tổ Sư (葉堅祖師),
(49) Thái Tuế năm Nhâm Tý là Kheo Đức Tổ Sư (丘德祖師),
(50) Thái Tuế năm Quý Sửu là Chu Đắc Tổ Sư (朱得祖師),
(51) Thái Tuế năm Giáp Dần là Trương Triều Tổ Sư (張朝祖師),
(52) Thái Tuế năm Ất Mão là Vạn Thanh Tổ Sư (萬清祖師),
(53) Thái Tuế năm Bính Thìn là Tân Á Tổ Sư (辛亞祖師),
(54) Thái Tuế năm Đinh Tỵ là Dương Ngạn Tổ Sư (楊彥祖師),
(55) Thái Tuế năm Mậu Ngọ là Lê Khanh Tổ Sư (黎卿祖師),
(56) Thái Tuế năm Kỷ Mùi là Phó Đảng Tổ Sư (傅黨祖師),
(57) Thái Tuế năm Canh Thân là Mao Tử Tổ Sư (毛梓祖師),
(58) Thái Tuế năm Tân Dậu là Thạch Chính Tổ Sư (石政祖師),
(59) Thái Tuế năm Nhâm Tuất là Hồng Sung Tổ Sư (洪充祖師), và
(60) Thái Tuế năm Quý Hợi là Ngu Trình Tổ Sư (虞程祖師).

ST-TTĐ-PHVHV