PHÉP CHỌN THỜI GIAN
Chọn các tháng lành để dựng pháp đàn: Tháng
giêng, tháng hai, tháng ba, tháng tư, tháng năm, tháng mười một.
Ngày lành trong tháng Bạch nguyệt: Mùng
hai, mùng ba, mùng bẩy, mùng mười, mười ba, mười lăm.
Ngày lành trong tháng Hắc nguyệt: Từ ngày
16 đến ngày 30.
Nếu chuẩn theo Thất Câu Chi Phật Mẫu đẳng
kinh: Tiêu tai là từ ngày mùng một đến mùng tám; Tăng ích là từ ngày mùng tám
đến ngày mười lăm; Ái kính là từ ngày mười sáu đến ngày hai mươi ba; Điều phục
là từ ngày hai mươi ba đến hết tháng.
Lại cũng nến theo ngày có Cát tinh trực
nhật để hành pháp. Nếu có sao Tỉnh, sao Dực, sao Tất, sao Đẩu, sao Chủy, sao
Vĩ, sao Tâm, sao Quỷ, sao Cơ, sao Thất là các sao tốt nhất, cầu mọi việc đều
được thành tựu. Nếu làm vào ngày có sao tỉnh thì mọi sở cầu đều thành tựu, lại
cả họ hàng quyến thuộc cũng được lợi. Nếu làm vào ngày có sao Vĩ, sao Đẩu, sao
Chủy thì được người khác yêu kính và được tài vật. Nếu làm vào ngày có sao Sâm
thì thì tai ương đều được hóa giải. Nếu làm vào ngày có sao Cơ thì con cháu
được trường thọ. Nếu làm vào ngày có sao Thất thì sẽ thành tựu những việc tốt
đẹp. Nếu làm vào ngày có sao Quỷ thì sẽ được nhất thiết tối thắng. Nếu làm vào
ngày có sao Tâm, sao Phòng thì được khoái lạc, xứng ý.
Phép chọn cát tinh điểm nhãn đó là Mộc tinh
cục thuộc Trách Thương, Thủy tinh cục thuộc Na Hiệt, Kim tinh cục thuộc Cát
thiện. Đó là “Tam tinh hòa hợp trực nhật” (trực nhật ba sao hòa hợp). Nếu làm
an tượng khánh tán khoa khi vào những ngày này thì sẽ được phúc đức tối
thượng.
Cử hành vào các ngày có 5 sao (theo thứ tự
trong Nhị thập bát tú) thứ ba, thứ sáu, thứ bẩy, thứ mười, thứ mười một, cùng
hiệp đồng với mặt trăng thì đại cát.
Cử hành vào các ngày có 4 sao thứ hai, thứ
sáu, thứ mười, thứ mười một, cùng hiệp đồng với sao Thủy thì đại cát.
Cử hành vào các ngày có có 4 sao thứ hai,
thứ bẩy, thứ chín, thứ mười một, cùng hiệp đồng với sao Mộc thì đại cát.
Cử hành vào các ngày có 3 sao thứ sáu, thứ
bẩy, thứ mười, cùng hiệp đồng với sao Kim thì đại cát.
Cử hành vào các ngày có 3 sao thứ hai, thứ
ba, thứ năm thì có thể phá tán tài vật.
Pháp sư nên biết rõ ngày lành tháng tốt,
cát tinh thuận hòa mà hành sự, thì dù chỉ trong khoảnh khắc của một sát na thôi
cũng đủ để thành tựu việc an tượng khánh tán, thu được phúc đức tối thượng,
được qua cửa của Chuyển Luân vương, Đại Quốc vương, không còn phải nghi ngờ gì
nữa. Lại nếu được cát tinh chiếu diệu thì nhất thiết tai ương chướng ngại đều
tiêu tán, đời đời kiếp kiếp được thành tựu. Thợ thuyền và những người tham gia
khác cũng được lợi lạc. Những lễ vật cúng dường Như Lai còn thừa nên chia đều
cho mọi người. Người được hưởng thì tai tiêu tội diệt. Giáo hóa của pháp sư
cũng nhờ đó được lưu hành. Thí chủ nên quảng kết thiện duyên, tùy theo sức lực
mà bố thí vàng bạc, tài lụa, voi ngựa, xe cộ, dốc lòng nghe lời pháp sư dậy
bảo.
Pháp sư hoan hỉ, hiền thánh cũng hoan hỉ.
Lại như tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di lấy tiền tài, phẩm vật, theo
sức cúng dường sẽ khiến phúc quả viên mãn. Vào đêm hôm ấy, treo đèn kết hoa, cử
hành ca vũ. Thí chủ và quyến thuộc đứng xung quanh, cung kính đảnh lễ mạn noa
la. Vật phẩm cúng dường trong đàn lễ nên tán thí hết. Pháp đàn xong xuôi, tức
thì thu dọn đồ vật. Phấn ngũ sắc nên đổ xuống sông.
Phật thuyết nhất thiết Như Lai an tượng tam
muội nghi quỹ kinh hết. ST - TTĐ