Ngũ quỷ vận
tài định cục
“Ngũ Quỷ vận
tài phong thủy cục”, có nguồn cơn từ Cửu tinh pháp, còn được gọi là Thiên tinh
pháp. Liên quan đến CỬU TINH, Cửu tinh tức là 9 sao trong hệ Bắc đẩu, gồm :
Tham lang
(Thiên khu)
Cự môn (hiên
tuyền)
Lộc tồn
(Thiên Cơ)
Văn khúc
(Thiên quyền)
Liêm trinh
(Ngọc hoành
Vũ khúc
(Khai dương)
Phá quân
(Dao quang)
Tả phụ (Động
minh)
Hữu bật (Ẩn
quang)
Cửu tinh – tại Thiên thì là Tượng,
tại Địa thì là Hình. Cho nên TRÊN mà xem Thiên tượng, thì có thể biết được sự
biến hóa của trời đất. DƯỚI mà biện địa hình, có thể biết được giầu nghèo họa
phúc của nhân gian. BIỆN địa hình, chính là chí về môn Phong thủy.
Nói về Ngũ Quỷ vận tài, tức là nói
đến Lý luận Long, Hướng, Thủy của Cửu Tinh pháp. Trong phép này thì hai sao
Phụ-Bật hợp lại thành một, gọi là Phụ tinh. Nếu vận dụng được phép này, thì có
thể làm cho người ta phát cự phú nhất thời. Địa lý của tự nhiên, phải được phối
hợp với con người trong tự nhiên, mới có thể bổ trợ cho nhau, khiến cho
người ta giầu có.
Khẩu quyết của Ngũ Quỷ Vận Tài : “
Sơn long Liêm Trinh hữu Hướng, Thủy long Cự Môn kiến Thủy”
Giải thích
về khẩu quyết này, thì Ngũ Quỷ tức là chỉ Liêm trinh (Trong Cửu tinh, Liêm
trinh thuộc Ngũ Quỷ). Tài tức là chỉ về Thủy (trong Phong thủy, Thủy chủ tài).
Nhờ có Thủy mà phát tài.
Ngũ Quỷ Vận Tài : Tọa là SƠN LONG,
Hướng là THỦY LONG. Ngoài địa hình Sơn long và Thủy long đều lập được một quẻ
theo phép thông thường. Dựa vào Tịnh Âm, Tịnh Dương cùng với Nguyên lý nạp giáp
của 24 sơn. Lập Sơn Long trên phương vị Liêm Trinh, trên phương vị Cự môn có
Thủy, tức là Ngũ Quỷ Vận Tài. Trong Dương trạch, Khai môn, hoặc đặt cửa sổ,
hoặc vị trí nạp khí vào phương vị Liêm Trinh, làm sao cho phương vị Cự Môn có
Thủy thì tức là Ngũ Quỷ Vận Tài.
Cửu tinh phối
với Bát Trạch :
Phụ tinh — Phục
vị
Tham lang — Sinh
khí
Cự môn — Thiên
y
Lộc tồn — Họa
hại
Văn khúc — Lục
sát
Liêm trinh —
Ngũ quỷ
Vũ khúc — Diên
niên
Phá quân — Tuyệt
mệnh
Phần trên là nói về thuật Ngũ Quỷ Vận Tài, cụ thể sẽ tham
khảo dưới đây :
Cơ Sở :
+ Bát quái nạp giáp:
Phép này chỉ
dùng “tam hào quái nạp giáp” (khác với phép Hỗn thiên nạp giáp):
Càn nạp Giáp
Khôn nạp Ất
Cấn nạp Bính
Đoài nạp
Đinh
Chấn nạp
Canh
Tốn nạp Tân
Ly nạp Nhâm
Khảm nạp Quý
+ Phép biến hào của Sơn Long:
Phép này lấy Tọa sơn lập quái, dùng phép biến quái
để bài bố cửu tinh, còn gọi là “bài long pháp”. Phép này, lấy 3 hào trong quẻ
để tiến hành biến hào, Hào biến thì Quẻ sẽ biến theo. Quẻ sau khi biến ra, lại
phối hợp với phép nạp giáp để bài bố cửu tinh (biến hào là từ hào dương đổi
thành hào âm và ngược lại).
Trình tự biến hào: biến các hào
theo thứ tự từ : Thượng – Trung – Hạ – Trung – Thượng – Trung – Hạ – Trung.
Cửu tinh thì bày bố thuận theo
thứ tự: Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Phụ Bật.
Ví dụ cho quẻ CÀN:
+ Quẻ Càn
biến hào thượng thành quẻ Đoài, thuộc sao Tham Lang
+ Quẻ Đoài
biến hào trung thành quẻ Chấn, thuộc sao Cự Môn
+ Quẻ Chấn
biến hào hạ thành quẻ Khôn, thuộc sao Lộc Tồn
+ Quẻ Khôn
biến hào trung thành quẻ Khảm, thuộc về sao Văn Khúc
+ Quẻ Khảm
biến hào thượng thành quẻ Tốn, thuộc sao Liêm Trinh
+ Quẻ Tốn
biến hào trung thành quả Cấn, thuộc sao Vũ Khúc
+ Quẻ Cấn
biến hào hạ thành quẻ Ly, thuộc sao Phá Quân
+ Quẻ Ly
biến hào trung thành quẻ Càn, thuộc sao Phụ Bật
Như vậy, sau 8 lần biến ta có:
Đoài ->
Chấn -> Khôn -> Khảm -> Tốn -> Cấn -> Ly -> Càn
Tương ứng với Cửu tinh:
Tham Lang
-> Cự môn -> Lộc tồn -> Văn khúc -> Liêm trinh -> Vũ khúc ->
Phá quân -> Phụ bật.
Các quẻ khác
cũng cứ thế mà suy ra.
+ Phép biến hào của Thủy Long:
Bởi vì phép này lại lấy Hướng để lập quẻ khởi Phụ
tinh, nên còn được gọi là “Phụ tinh thủy pháp phối quái”. Cũng như Sơn long,
phép này lấy hướng để lập quẻ khởi Phụ tinh, theo thứ tự mà biến hào, hào biến
thì quẻ biến, sau đó lại đem phối với Cửu tinh.
Trình tự biến hào, thuận theo thứ tự: Trung – Sơ – Trung – Thượng – Trung
– Sơ – Trung.
Cửu tinh bài bố thuận theo thứ tự: Phụ Bật, Vũ Khúc, Phá Quân, Liêm
Trinh, Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc.
Ví
dụ cho quẻ CÀN:
+ Hướng Càn,
thì lấy Càn để khởi Phụ tinh (Càn nạp Giáp, nên cũng gọi là Giáp khởi Phụ
tinh).
+ Càn biến
hào trung thành Ly, thuộc về Vũ Khúc. Ly nạp Nhâm, Dần, Ngọ, Tuất nên các sơn
này cũng đều thuộc Vũ Khúc
+ Ly biến
hào sơ thành Cấn, Cấn là Phá Quân, Cấn nạp Bính, nên Bính cũng thuộc Phá Quân.
+ Cấn biến
hào trung thành Tốn, Tốn là Liêm Trinh, Tốn nạp Tân, nên Tân cũng thuộc Liêm
Trinh.
+ Tốn biến
hào thượng thành Khảm, Khảm là Tham Lang, Khảm nạp Quý, Thân, Tý, Thìn nên các
sơn này cũng thuộc Tham Lang.
+ Khảm biến
hào trung thành Khôn, Khôn là Cự Môn, Khôn nạp Ất nên Ất cũng thuộc Cự Môn.
+ Khôn biến
hào sơ thành Chấn, chấn là Lộc Tồn, Chấn nạp Canh, Hợi, Mão, Mùi, nên các sơn
này cũng thuộc Văn Khúc.
+ Chấn biến
hào trung thành Đoài, Đoài là Văn Khúc, Đoài nạp Đinh, Tỵ, Dậu, Sửu nên các sơn
này cũng thuộc Văn Khúc.
Như vậy có :
Càn -> Ly
-> Cấn -> Tốn -> Khảm -> Khôn -> Chấn -> Đoài
Tương ứng với Cửu tinh :
Phụ Bật
-> Vũ Khúc -> Phá Quân -> Liêm Trinh -> Tham Lang -> Cự Môn
-> Lộc Tồn -> Văn Khúc.
Trên đây là
ví dụ cho quẻ Càn, các quẻ khác cũng theo đó mà biến.
*Tác pháp cụ thể và ví dụ ứng dụng:
Tác pháp (cách làm) :
+ Sơn long
là Liêm trinh làm hướng:
Lấy Tọa sơn để lập quẻ (tọa sơn gọi là Sơn Long)
Dùng phép “bài long biến hào phiên quái” (đã trình bày ở trên) để bày bố
Cửu tinh.
Dựa vào “tịnh âm, tịnh dương”
cùng với nguyên lý “Nạp giáp tam hào” để nạp cho 24 sơn. Tìm xem Liêm Trinh ở
đâu, lấy đó để làm Khí Khẩu, hoặc Thủy Khẩu. Có thể khai môn hoặc đặt cửa sổ 2
cánh để nạp khí, gọi là “thu sơn xuất sát” (trong Âm trạch thì lập Hướng Liêm
Trinh).
+ Thủy long là Cự môn thấy Thủy :
Theo trên lập quẻ (Hướng Sơn gọi là Thủy long)
Dùng phép “Thủy long biến hào phiên quái” (đã trình bày ở trên) để bày bố
Cửu tinh.
Dựa vào phép nêu trên để nạp vào 24 sơn.
Tìm xem Cự môn ở đâu, lấy vị trí của Cự môn này để mà bố trí Thủy lai.
Như trình
bày ở trên tức là phép “Ngũ quỷ vận tài” của Phong thủy.
·
Ví dụ ứng dụng: Ví dụ cho trường hợp sơn Tân, hướng Ất (tọa Tân hướng Ất)
+ Sơn long là Liêm trinh :
Tọa sơn tức là Sơn long, lấy để
lập quẻ, được chữ Tân, mà Tốn thì nạp Tân (phép nạp giáp), nên lấy Tốn để lập
quẻ.
Sơn long biến hào phiên quái, quẻ
Tốn biến như sau :
Khảm->Khôn->Chấn->Đoài->Càn->Ly->Cấn->Tốn
Tham->Cự->Lộc->Văn->Liêm->Vũ->Phá->Phụ
Đem nạp vào 24 sơn
Tìm phương của Liêm Trinh, Liêm
trinh tại Càn, Càn lại nạp Giáp, nên Liêm trinh ở phương vị Càn và Giáp.
Đối với Âm trạch lấy Liêm trinh
làm hướng, Đối với Dương trạch thì lấy phương Càn, phương Giáp để khai môn hoặc
bố trí cửa số.
+ Thủy long là Cự môn
thấy Thủy :
Hướng sơn là Thủy Long, lấy hướng
lập quẻ. Được hướng Ất, mà Khôn thì nạp Ất, nên lấy Khôn để lập quẻ.
Dùng phép “thủy long
biến hào phiên quái” để bài bố Cửu tinh. Như sau :
Khôn->Khảm->Đoài->Chấn->Ly->Càn->Tốn->Cấn
Phụ->Vũ->Phá->Liêm->Tham->Cự->Lôc->Văn
Đem nạp vào 24 Sơn
Tìm xem phương vị Cự môn ở đâu:
Cự môn tại phương Càn, mà Càn nạp Giáp nên Cự môn ở hai phương Càn, Giáp.
Nếu thấy hai phương này mà có Thủy thì là đắc phép
“Ngũ quỷ vận tài”.
Trên là ví dụ cho Phép “Ngũ quỷ vận tài” ứng dụng
của Phong Thủy. Các trường hợp khác thì phỏng theo đó mà làm.
Ngũ
quỷ vận tài Long – Hướng thủy pháp:
Căn cứ vào lý luận trên, cổ nhân
lập hướng thủy pháp như sau :
Khôn long, lập Chấn Canh Hợi Mùi
hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, được Tốn Tân thủy hay môn lộ, là “đới cự môn tài
lai”
Tốn long, lập Càn Giáp hướng, là
“ngũ quỷ lâm môn”, khai Khôn Ất môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
Ly long, lập Cấn Bính hướng, là
“ngũ quỷ lâm môn”, khai Đoài Đinh Tỵ môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
Đoài long, lập Khảm Quý Thân Thìn
hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Ly Nhâm Dần Tuất môn lộ, là “đới cự môn tài
lai”
Cấn long, lập Ly Nhâm Dần Tuất
hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Khảm Quý Thân Thìn môn lộ, là “đới cự môn tài
lai”
Khảm long, lập Đoài Đinh dĩ xú
hướng, vi ngũ quỷ lâm môn, khai cấn bính môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
Chấn long, lập Khôn Ất hướng, là
“ngũ quỷ lâm môn”, được Càn Giáp thủy hay môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
Càn long, lập Tốn hướng, là “ngũ
quỷ lâm môn”, được Chấn Canh Hợi Mùi thủy hay môn lộ, là “cự môn đái tài lai”.
Ngoài ra, Lý khí còn dùng số Lạc thư Tiên thiên bát quái,
tương đối rõ ràng.
Số 2 – Tốn là Hướng với số 9 - Càn là “Lai long Lục hợp” Liêm trinh, Ngũ
Quỷ, Thái dương.
Số 2- Tốn là Hướng với
số 8 – Chấn là “Môn lộ hợp thập” Cự môn, Cự môn vốn chủ Tài, tài đến với mình,
như cứu bần (cứu khỏi nghèo túng), nên gọi là Ngũ Quỷ Vận Tài vậy.
Nguyễn Trọng
Tuệ – Chủ tịch CLB phong thủy Thăng Long