Thứ Năm, 6 tháng 9, 2018

TAM CÁCH NGŨ CƠ


TAM CÁCH NGŨ CƠ

Phong thuỷ chia âm, dương nhị trạch. Khí chia nội, ngoại nhị khí. Địa hình chia sơn long, thuỷ long. Thời gian chia Tam nguyên cửu vận làm lý-Nhị nguyên bát vận làm dụng. Chung quy là sự tuần hoàn của âm dương.
Nơi con người và xe cộ qua lại nhiều mà thành một con đường; nơi con người tìm cách băng sông mà thành một chiếc cầu; nơi con người tránh mưa, nắng và nghĩ ngơi mà thành một ngôi nhà, một thành thị… Những cái này đều là do sức của người làm nên mà không phải tự nhiên có sẵn, nhưng lại tác động trực tiếp vào cuộc sống con người. Dương trạch bí chỉ vì vậy thực không ngoài Tam cách- Ngũ cơ. Vì sao gọi Tam cách, vì sao gọi ngũ cơ?
Tam cách:
Nhất: Đó là Thành thị nông thôn, hễ nơi nào nhân dân sống yên ổn, bình hoà. Nơi đó đều có thể cư trú, làm nhà sinh sống. Nơi nào con người luôn gây hấn và thù nghịch với nhau, tất đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không.
Nhị: Đó là Nơi miền bình dương, ở cạnh sông nước, đường sá thông thoáng, thuận tiện lưu thông, khí hậu mát mẻ. Đó là nơi có thể cư trú, sinh sống. Nếu bình dương mà đất khô cằn, thiếu nước, khí khô khốc thì đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không.
Tam: Đó là Nơi miền núi cao, cao nguyên, bốn bề núi đá, nơi cứ trú phải có đất bằng rộng lớn, đất phải trồng cây cao to được(đất phải dày). Nơi đó có thể cứ trú, sinh sống. Nếu đất quá ít hoặc quá nông, bốn bề vách đá dựng thẳng thì đó là đất dữ, loan đầu lý khí có hợp cũng bằng không
Ngũ cơ:
Nhất đó là Địa đoạn. Nhà dài mà sâu(hình chữ nhật), nhà vuông(chữ điền) là cách tốt. Nhà nông cửa lớn, nhà gấp khúc, nhà ẩm thấp, nhà thóp hậu, nhà lộ trung cung… đều là hung cách, cho dù thừa vượng khí, cát cũng chuyển hung. Loan đầu lý khí có ích chi?
Lộ trước nhà có hình chữ đinh(ngã ba), hình chữ thả(nhiều đường giao nhau) là tốt; tối kỵ đường hình chữ khốc(như người đứng trước nhà khóc lóc) đơn cử một điều như vậy, thụ sát hình thì sát, thụ cát hình thì cát. Sát tựu trung có đối xung(đối diện thẳng đến), xung yêu(đâm ngang lưng), tà xạ(chém xéo một bên), phản cung(như cánh cung đánh bật lại), cát cước(cắt sát nhà), giao kiếm(như đôi kiếm gác chéo nhau), bàn đà(nằm giữa tâm xoắn ốc), trong các sát bàn đà khó nhận nhưng nhưng lại hung nhất, nếu gặp bàn đà thì tuyệt cả đinh tài toàn gia.
Nhị đó là Phong môn. Phong môn là nơi chính khí nhập xuất, tất phải khai môn nơi sinh vượng để dẫn cát khí nhập phòng thất. Xung quanh nhà nếu có thuỷ, nếu đó là chính thần phương vị thì khai môn chính là thu sơn xuất sát. Xung quanh nhà nếu không có thuỷ, tất khai môn tại linh thần phương vị chính là thu sơn xuất sát. Thu sơn xuất sát chỉ một phép này chứ không có hai. Chính môn nạp được vượng khí, cửa phòng, cửa sau.. cũng nạp được vượng khí thì toàn cát, nếu chính môn vượng khí, các cửa suy khí hay ngược lại thì là ngoại cát nội hung hay nội cát ngoại hung, cả hai trường hợp đều không được trọn vẹn.
Tam đó là Cù hạng. Đường thông ngõ thông là nghĩa của cù hạng, gần hơn là ngõ chính để con người từ nhà ra bên ngoài. Nơi này nếu động khí mạnh thì tức đối cung là quái vận. Như nhà toạ Ly hướng Khảm, cù hạng tại Khảm tức phản đáo thành Ly trạch quái. Cù hạng tại Càn tức phản đáo thành Tốn trạch quái. Ly vượng hạ nguyên mà bại tại thượng nguyên, Tốn vượng trung nguyên mà bại Thượng Hạ nguyên. Thế nên mới có chuyện tinh bàn vượng hướng mà vẫn bại do cù hạng làm chủ tinh bàn, trạch quái biến suy. Cù hạng vượng suy đồ là như vậy.
Nhiều phái gọi cù hạng là thuỷ khẩu, đối cung là lai long. Điều này đúng mà chưa đủ. Cù hạng định rõ phép trừu hào hoàn tượng của trạch quái mà không gọi đó là lai long.
Tứ đó là Kiệu tinh. Kiệu tinh là cây cầu, là nhà cao tầng xung quanh trạch. Kiệu tinh có gần có xa. Kiệu tinh hồi phong phản khí. Khí phương kiệu tinh suy tức phản về trạch cũng là suy khí; khí tại phương kiệu tinh là vượng tức phản về trạch cũng là vượng khí. Nơi phương có hướng tinh suy tử, sơn tinh sinh vượng mà có cây cầu hay nhà cao tầng, khí hồi phản về là khí sinh vượng của sơn, vượng khí hồi đáo bản trạch. Thế nhân nhận lầm đây là thu sơn xuất sát, kỳ thực chỉ là phản khí hồi cung. Nếu nơi phương ấy nhà cao tầng ở xa thì khí không thể phản ngược về, sơn tinh sinh vượng có ích chi? vì nơi ấy chỉ còn suy tử khí mà thôi. Nếu nơi phương ấy nhà cao tầng áp sát một bên thì khí sinh vượng bị bức bí, sơn tinh sinh vượng cũng có ích gì đâu?
Ngũ đó là Ngung không. Ngung không dương trạch tạm xem là mãn (đầy) và không(trống) vậy. Nơi cần mãn được mãn, nơi cần không được không chính là đắc cách vậy. Nơi mãn lại kiến không, nơi không lại kiến mãn là phản cách vậy. Tục gọi thượng sơn hạ thuỷ chính là một ý nhỏ của ngung không. Kỳ thực ngung không diệu dụng lại ở Thời: thời gian này cần mãn, thời khác lại cần không “điên điên đảo châu bảo hoá hoả khanh, hoả khanh hoá châu bảo” đó mới chính là diệu dụng của Ngung không. (Sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét