Nghi
thức Cúng bái & Tế lễ
- Cập nhật : 05/07/2014
Lễ Hội Hùng Vương (Hội Đền
Hùng) Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua
Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Giỗ Tổ Hùng Vương -
Lễ hội Đền Hùng - nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn,”
biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên
cường chống giặc ngoại xâm giữ nước. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung
của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi
cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng (xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú
Thọ). Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Lễ
giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba: Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Sơ
Lược Nghi Thức Cúng Bái Và Lễ Tế Của Người Việt
Phong tục là thói quen đã
được nhiều người chấp nhận qua một thời gian dài. Phong tục nhiều khi có
những nghi thức phức tạp, cầu kỳ, rườm rà, tỉ mỉ không giải thích được lý do
tại sao lại “phải” như thế (?)mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi (có lẽ lời giải
thích đã không còn thích hợp; hoặc thất truyền, mất đi theo thời gian).
Trong mỗi gia đình Việt Nam
chúng ta, dù theo đạo nào cũng vậy, phong tục thờ cúng tổ tiên là cách biểu thị
lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương kính và hiếu thảo đối với ông bà cha
mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải
duy trì; để con cháu ta mới có cơ hội học hỏi và hiểu được ý nghĩa của việc thờ
cúng ra sao.
Thờ cúng là nghi lễ của tôn giáo; cũng là phương thức cúng
tế vị “Thần” vô hình tối cao theo quan điểm tôn giáo đó.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến
nghi thức “Cúng bái và Tế lễ” tức là thể thức dâng đồ lễ lên Tổ tiên ông bà,
thần linh của đạo thờ Ông bà và thờ Thần.
1-
Nghi thức Cúng bái (gia tiên và gia tộc)
Nói chung, những giới luật cúng
bái có chỗ “đại đồng tiểu dị,” qua nhiều thời đại và địa phương, nghi thức cúng
bái thay đổi, hoặc đề ra giới luật không giống nhau, có quan điểm khác nhau ít
hay nhiều, nhưng tựu trung thì mục đích vẫn thống nhất với nhau.
Có rất nhiều tài liệu khác nhau
về cúng kiến, người viết xin ghi chép lại các nghi lễ thường được dùng; đồng
thời thỉnh thoảng xin mạo muội góp vài ý kiến, tạm gọi là để “hướng dẫn.”
Đọc giả có thể tùy nghi dựa theo đây mà thêm hoặc bớt để hợp với hoàn
cảnh của cá nhân mình.
Cúng
Việc cúng thường được tổ chức
trong khuôn khổ gia đình hay họ (tộc) và do gia trưởng hay trưởng tộc làm chủ,
lo lấy việc hành lễ. Mỗi lần cúng đều có đồ tế lễ.
Cúng khi có giỗ Tết, kỵ nhật,
có chuyện thay đổi lớn lao trong gia đình (đi xa, dựng vợ gả chồng, xây dựng
nhà cửa, khai trương hàng quán thương mại…). Tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo,
cúng có đồ lễ gồm trầu, rượu, hoa quả, vàng mã, hương (nhang), cỗ chay, cỗ mặn…
hoặc đôi khi chỉ có hương và nước lạnh…Sau khi thắp đèn (hoặc nến), đặt
đồ lễ lên bàn thờ trên bàn thờ, gia trưởng (hoặc trưởng tộc) khăn áo chỉnh tề,
thắp hương cắm lên bình hương và đứng nghiêm trang khấn vái. trước hết để trình
bày lý do việc cúng lễ, và kế đó là mời gia tiên hưởng lễ.
Trong nghĩa bình thường, cúng
là thắp nhang (hương), khấn, lạy, và vái.
Khấn
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy.
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy.
Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn,
trang trọng nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt
không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải khấn.
Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn
riêng.
Khấn là lời cầu khẩn lâm râm
trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày
tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia
đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Trước khi khấn, gia trưởng
vái ba vái; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta
gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ
nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ
(và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ
ngũ đại trở
xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do
“thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn
khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và
đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
Ngoài ra, theo nghi lễ cúng
cổ truyền, thường không để cho phụ nữ đàn bà phụ trách việc khấn vái (?!)
(ngoại trừ gia đình có chồng chết sớm, và các con còn nhỏ).
Lời
khấn cần có những chi tiết sau:
1. Báo trình địa điểm hành
lễ, từ nước trở xuống xã thôn.
2. Nói rõ con cháu, liên hệ
gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ
trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.
3. Mời người có tên giỗ về
hưởng, chứng giám lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành.
4. Cũng mời tất cả các vị tổ,
đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.
Sau đây là một số bài văn
khấn mẫu, đọc giả có thể tùy ý sửa chữa để hợp với hoàn cảnh riêng của mình:
Văn
khấn gia tiên
Một bài văn khấn tượng trưng
bằng chữ Hán (bài này trìng bày ở đây chỉ để đọc giả tham khảo them; hoặc đọc
cho biết. Nếu thấy không cần thiết thì quý vị cứ bỏ qua phần văn khấn chữ
Hán này).
“Duy Việt Nam, “Canh Dần” niên,
“”thất” nguyệt,” sơ “thập nhị” nhật.
Kim thần “Trương Văn Tốt,” sinh quán “Đa Phúc” xã, “Kinh
Dương” huyện, “Hải phòng” tỉnh cư ngụ “Tân hòa” xã, “Tân bình” quận, “Gia định”
tỉnh.
Cẩn dĩ:
Phù lưu thanh
chước, mâm bàn cụ vật, thứ phẩm chi nghi; Cảm chiêu cáo vu.
Nhân nhật chính kỵ cung
thỉnh:
Cao tằng tổ khảo “Trương Quý
Công,” húy “Tiền Hải , hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” lai lam chứng giám.”
Dịch Nôm:
(Cao tằng tổ khảo: kỵ ông – đối với người khấn là bốn đời
Cao tằng tổ tỷ: kỵ bà
Tằng tổ khảo: cụ ông
Tằng Tổ tỷ: cụ bà
Tổ khảo: ông
Tổ khảo: bà
Hiển khảo: Cha
Hiển tỷ: mẹ…
(Cao tằng tổ khảo: kỵ ông – đối với người khấn là bốn đời
Cao tằng tổ tỷ: kỵ bà
Tằng tổ khảo: cụ ông
Tằng Tổ tỷ: cụ bà
Tổ khảo: ông
Tổ khảo: bà
Hiển khảo: Cha
Hiển tỷ: mẹ…
Tên tục là tên lúc sống vẫn gọi,
tên hiệu là biệt hiệu, bút hiệu; tên thụy là tên khi chết được đặt cho để cúng)
“Nước Việt Nam, năm Canh Dần,
tháng bẩy, ngày mười hai..
Nay tôi là “Trương Văn Tốt,” sinh quán tại xã “Đa Phúc,”
huyện “Kinh Dương,” tỉnh “Hải phòng.” Hiện cư ngụ tại xã “Tân hòa,” “quận
Tân bình,” tỉnh “Gia định.”
Hương hoa trầu rượu, cỗ bàn mọi vật
Dám xin kể ra
Nhân ngày giỗ chính, xin kính mời:
Hương hồn kỵ là “Trương Quý
Công” húy “Tiền Hải” hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” về chứng giám.”
Ngày nay dân gian gần như
không dùng văn khấn chữ Hán nữa mà chỉ dùng thẳng chữ Việt vì chữ Việt rõ ràng
và dễ dùng, không bị nhầm lẫn chữ nghĩa…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét