Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018

CÁC BỘ SÁCH KINH ĐIỂN VỀ PHONG THỦY


CÁC BỘ SÁCH KINH ĐIỂN
VỀ PHONG THỦY
1.                  “Trạch Kinh”: một tập đại thành tư liệu còn lại
Qua tư liệu, ta thấy có nhiều người biên soạn Trạch Kinh, như Hoàng đế trạch kinh, Văn Vương trạch kinh, Khổng Tử trạch kinh, Huyền Nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên Sư trạch kinh, Hoài Nam Tử trạch kinh, Vương Vi trạch kinh, Tư Tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Trương Tử Hàn trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Lã Tài trạch kinh. Ngoài ra còn có địa điển, tam nguyên, thiên lão, bát quái, ngũ triệu, huyền ngộ, lục thập tứ quái, hữu bàn long, phi âm loạn phục, đều xưng là TRẠCH KINH và đều đã thất truyền.
Ở đây xin giới thiệu một bộ Trạch Kinh, tên cũ là Hoàng Đế Trạch Kinh. Bộ này có nhiều bản, như “Đạo tàng – Đông chân bộ chúng thuật loại”, “Tiểu thập tam kinh”, “Di môn quảng độc – Tạp chiêm, “Tân đãi bí thư” tập 4, “Sùng văn thư cục hội khắc thư”, “Đạo tàng cử yếu”, “Tứ khố toàn thư – Tí bộ thuật số loại”, “Học tân thảo nguyên” tập 9, “Cư gia tất bị – Xu tị”, “Thuyết phù”… đều có Trạch Kinh, nói rõ đây là bộ sách quan trọng về Tướng Địa, một văn hiến lưu hành rộng rãi.
Tác giả sách này xưa nay chưa được khảo cứu. Có người cho rằng, tác giả là Hoàng Đế, mà không biết rằng thời Hoàng Đế chưa có chữ viết, thì làm sao so sánh? Xưa nay có nhiều tác giả mượn danh Hoàng Đế, như “Hoàng Đế nội kinh tố vấn”, là muốn nói rằng “nguồn gốc từ xa xưa” để đề cao địa vị của họ. Kỳ thực, nội dung như sách này bộ lộ nhiều chỗ sơ hở, tòi ra họ mượn nội dung về Trạch Kinh của Lý Thuần Phong, Lã Tài v.v…, không khảo mà xưng rằng đây là tác phẩm đời Đường hoặc sau Đường. Trong cựu “Đường thư – Kinh dịch chí” có “Ngũ tính trạch kinh” 2 quyển; “Tổng sử – Nghệ văn chí” có “Tướng trạch kinh” 1 quyển, “Trạch thể kinh” 1 quyển, có lẽ thuộc loại này.
Mở đầu sách nhấn mạnh tầm quan trọng của TRẠCH (nhà ở): “Trạch là bản lề giữa âm với dương, là dáng vẻ nhân luân của con người. Không có nhà để bái vật minh hiền, thì không thể giác ngộ được cái đạo… Trong chuyện cư trú, không ai là không cần nhà, tuy to nhỏ không như nhau, âm dương có khác biệt. Ngay cả những người cùng một ngôi nhà, cũng có thiện ác, người to nói lớn, người nhỏ bàn nhỏ, phạm thì tai họa, trấn thì họa yên, cũng như con bệnh uống thuốc vậy. Vì vậy, nhà là cái gốc của người. Coi trạch là nhà, ở yên thì gia đình hưng thịnh, nếu không thì gia đình suy thoái. Phần mộ, xuyên cương cũng vậy. Thuyết này đúng với tất cả, từ trên là quân quốc, thứ đến châu quận huyện đốc, dưới đến thôn xóm, rồi đến vùng cao, nhứng nơi có người ở”.
Làm sao chọn được ngôi nhà chủ điều lành? Sách này cho rằng, sách viết về nhà ở rất nhiều trong thiên hạ. Những sách đó đều tự cho mình là bí ẩn một cách kỳ diệu, rồi thì chê bai lẫn nhau, kỳ thực chỉ là đại đồng tiểu dị. Mọi người tin phong thủy, nghiên cứu “Ngũ tính bát trạch”, “Hoàng đạo bạch phương” mà quên bẵng cái lý của “âm – dương”. “Âm là mẹ đẻ ra sinh hóa vật tình. Dương là cha của sinh hóa vật tình, là tổ của trời đất, là đấng chí tôn của sinh sôi, thuận thì hanh thông, nghịch thì trái lại”. Do vậy, sách này lấy âm dương là rường cột, “thu nhặt những bí ẩn mà linh nghiệm chia thành 24 lộ, bát quái, cửu cung, mà phối với phương vị nam nữ, làm nhà ở nơi giao tiếp giữa âm dương, mà tìm tòi không nghỉ”.
Sách này lấy thiên can, địa chi phối hợp với Càn Cấn Khôn Tốn trong bát quái, hợp thành 24 lộ, lần lượt hình thành dương trạch đồ và âm trạch đồ. Trên đồ hình đó, lấy phương vị Càn Khảm Cấn Chấn và Thìn là dương, Tốn Ly Khôn Đoài là âm. Dương lấy Hợi làm đầu, lấy Tị làm cuối. Âm lấy Tị làm đầu, lấy Hợi làm cuối. Tất cả các phương vị đều liên quan đến cát hung, hoặc là đại họa, hoặc là đại phúc, thuận thì thịnh, nghịch thì vong. Nghe nói toàn bộ lăng mộ nhà Thanh đều căn cứ vào 24 sơn hướng, dùng la bàn mà xác định cát địa, gọi là điểm huyệt. Điểm được huyệt, mới khởi công xây dựng.
Sách này trình bày rất toàn diện về nhà ở. “Lấy hình thế làm thân thể, lấy sông suối làm huyết mạch, lấy đất đai làm da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy nhà làm quần áo, lấy cửa giả làm mũ, đai” nếu được đúng như vậy, thì sự nghiêm mà nhã, là đất thượng cát (rất tốt).        
Sách này còn trình bày rất cụ thể về âm trạch đồ và dương trạch đồ, để hướng dẫn mọi người chọn đất. Những điều trình bày đều duy tâm, không có căn cứ thực tế, không đủ tin cậy.
Sách này trình bày lớp láng rất chặt chẽ, viện dẫn “Trạch cựu kinh” và “Tam huyền trạch kinh”. Vậy là một tập đại thành của các kinh, do đó mới lưu truyền đến bây giờ.
(Theo sách “Đại điển tích văn hóa Trung Hoa – tập Bí ẩn của Phong thủy”)

2.                  Táng Kinh: một tác phẩm nửa thật nửa giả
Thanh Ô Tử là người như thế nào? Nửa người nửa thần. “Bão Phác Tử – Cựu ngôn” viết: “Lại nói các đệ tử của Bành Tổ, ông Thanh Y Ô, ông Hắc Huyệt, ông Tú Mi… bảy tám người đều sống đến mấy trăm tuổi ở đời Ân rồi đều quy Tiên”. “Chân cáo chân mệnh thụ” chép: “Xưa, ông Thanh Ô được thầy giỏi dạy dỗ, nghiên cứu về kiếp tiên, vào núi Hoa Âm học đạo, tích lũy kiến thức trong bốn trăm bảy mươi mốt năm, 12 lần thi thì 3 lần không đạt. Sau được thăng làm Thái Cựu. Thái Cựu đạo nhân có 3 lần thi không đỗ, chỉ là người tiên, không được làm chân nhân. Nói vậy là ý gì?”. Vậy là coi Thanh Ô Tử là tiên cùng loại với Bành Tổ?
Thanh Ô Tử lưu dấu chân ở các nơi. Đàm Diêu đời Tống trong “Gia Thái Ngô Hưng chí” quyển 4, chép: “Trường Hưng Ô xem núi ở bắc huyện năm mươi dặm, cao bốn trăm thước”, “Sơn hư danh” chép: “xưa có Thanh Ô Tử chiêm vọng núi này, nói rằng núi này có thể lánh nạn và đường đạo, người lánh đời có thể đến ở, do đó mà có tên”.
Cái tên Thanh Ô Tử xuất hiện lần đầu ở sách nào? “Tứ khố toàn thư tổng mục” viết: “Muốn khảo cứu Thanh Ô Tử thì viết ở Tấn Thư – Quách Phác truyện”. Nhưng Tấn Thư – Quách Phác truyện chỉnh lý ở đời Đường thì không có tên Thanh Ô Tử. Trong lịch sử có 18 “Tấn Thư”, ngày nay còn lại một số, theo khảo cứu của Dư Gia Tích thì không một “Tấn Thư” nào ghi chép về Thanh Ô Tử. Rà soát lại văn bản, thấy tên Thanh Ô Tử đã xuất hiện từ đời Hán. “Quảng Vận” 15 chữ “Thanh” dẫn Đông Hán ứng Thiệu Phong tục thông”, viết: “Không có Thanh Ô Tử giỏi về mồ mả”.
Nhưng trước đời Đường quả có sách “Thanh Ô Tử”. “Thế thuyết Tân ngữ – Thuật giải thiên”, Lưu Hiếu Tiêu (Lương) chú giải có dẫn “Thanh Ô Tử tướng chủng thư” nói rằng: “táng ở sừng rồng thì phú quý bột phát, sau đó không còn bát ăn”. Ngu Thế Nam (cuối Tùy đầu Đường) tại “Bắc thường như sao” quyển 146, dẫn “Thanh Ô Tử táng thư” nói: “Ngày mở huyệt, thường cúng tổ công bằng cá rán”. Âu Dương Tuần (Đường) tại “Nghệ văn loại tụ” dẫn “Tướng trùng thư” viết: “Thanh Ô Tử” nói rằng nếu táng ở núi có hình trăng khuyết hoặc như con đò thì phú quý; táng ở núi có hình mào gà thì tuyệt diệt; táng ở núi trùng điệp, dáng như chiêng  thì thì giầu đến liên châu hai nghìn thạch”. Lý Thiện (Đường) chú “Văn tuyển” quyển 23 “Lưu Lăng Vương mộ hạ tác” dẫn “Thanh Ô Tử” viết: “Thiên tử táng ở núi cao, chư hầu táng ở chỗ đồi gò liền nhau”. Những điều trên đây chứng tỏ “Thanh Ô Tử” lưu hành rộng rãi.
Trong mục lục văn hiến, “Cựu Đường thư – Kinh tịch chí”, “Tân Đường thư – Nghệ văn chí” đều chép “Thanh Ô Tử” ba quyển, không ghi tên người soạn. Nhưng “Tống sử – Nghệ văn chí”, “Sùng văn tổng mục” không thấy đưa sách này vào, do sơ suất hay là do “Thanh Ô Tử” đã thất truyền? Đây là vấn đề các nhà học thuật phải làm rõ. Hiện nay, tại “Tiểu thập tam kinh”, “Học tân thảo nguyên”, “Nhị thập nhị tử toàn thư”, đều có một quyển “Thanh Ô tiên sinh táng kinh”, đề Thanh Ô Tử đời Hán soạn thảo, thừa tướng Đại Kim Ô Khâm Trắc chú giải. Quyển “Thanh Ô tiên sinh táng kinh” có nhiều điểm đáng ngờ: Rất nhiều câu của “Thanh Ô Tử” được trích dẫn trong các sách đời Đường hoặc trước đời Đường, nay sao không thấy? Vì sao các mục lục đời Tống không chép Thanh Ô Tử. Vì sao bản sách này có rất nhiều nội dung trong “Táng thư” của Quách Phác? Thừa tướng Đại Kim Ô Khâm Trắc là ai? Vì sao trong “Kim sử” không thấy tên ông này? Ông thừa tướng “trên trời rơi xuống” này sao lại chú thích sách này? Có thể thấy sách này là sách giả mạo sau đời Tống.
Sách này còn có tên “Thanh Ô tiên sinh táng kinh”, trước đó đã có lời tựa tên là Thừa tướng Đại Kim Ô Khâm Trắc. Ô Khâm Trắc là ai? Vì sao lại phải giả làm tên ông này để đề tựa? Nhất thời chưa thể làm rõ. Nội dung bài tựa có thể chia làm hai phần: một là khảo chứng Thanh Ô, viết “Tiên sinh là người thời Hán, tinh thông thuật âm dương địa lý, mà sử không chép tên. “Táng thư” của họ Quách đời Tấn dẫn Kinh chính là kinh của ông”. Hai là đánh giá về sách, viết: “Lời của Tiên sinh giản dị và nghiêm túc, ngắn gọn mà đắt, trở thành lối văn về âm dương cho hậu thế”.
Sách này cứ bốn chữ là một câu, không chia thiên chia quyển, nội dung được đề cập gồm: Bàn Cổ hỗn mang, đọng kết sông núi, đất phúc hậu, núi ngưng nước lắng, mạch gặp nước dừng, những huyệt khả úy, quỷ thần và người, huyệt tốt mà ấm, quý khí tương tư (bổ trợ cho nhau), ngoại cầu (tìm kiếm) nội mị (tìm kiếm), thế dừng hình ngang, núi theo dòng chảy, trăm sông đổ về một mối, an chỉ xa xăm, hướng định âm dương, chủ lập bần tiện, đất phát công hầu, đất phát tể tướng, đất phát ngoại đài, đất phát phú quý, đất phát về văn, đất phát đại phú, đất bần tiện, chôn trộm, huyệt cát, hung táng, phong thủy tự thành (vốn có).
Qua trích yếu trên đây, ta thấy các lý luận mà các thầy phong thủy đời sau thường rêu rao, về cơ bản đã có ở sách này. Như nói về điểm huyệt, sách này viết: “Huyệt mà không thuận, xương mục rữa nát. Huyệt mà bất cập, chủ nhân tuyệt diệt; huyệt mà thẩm lậu, quan nghiêng quách ngửa, huyệt mà quay đi, hàn tuyền róc rách, đáng sợ như vậy, sao không cẩn thận”. Lại viết: “Nội khí phát sinh, ngoại khí thành hình. Nội ngoại nối tiếp, phong thủy tự thành. Lấy mắt mà đo, lấy tình mà hiểu. Nếu hiểu điều đó, mặc sức tung hoành”.
Qua đoạn văn trên, ta thấy những chỗ dấu đầu hở đuôi. Đời Hán chưa có từ “Phong Thủy” để gọi thuật tướng địa, vậy mà sách này lại viết “phong thủy tự thành”, rõ ràng không khảo mà xưng sách này không phải của người đời Hán soạn thảo, cũng không phải của Thanh Ô tiên sinh. Sách mượn tên Thừa tướng nhà Kim viết lời tựa và chú giải, lời chú và lời văn của sách cùng một phong cách, rất có thể cùng một người viết. Từ đó có thể suy đoán rằng, sách được soạn vào đời Nguyên, Minh.
(Theo sách “Đại điển tích văn hóa Trung Hoa – tập Bí ẩn của Phong thủy”)
3.                   
4.                  “Địa Lý Chỉ Mông”: một văn bản có tính tổng kết
Sách này còn có tên “Quản thị địa lý chỉ mông”. Đây là một tác phẩm về thuật tướng địa mà thể lệ hoàn chỉnh, nội dung phong phú, quan điểm toàn diện.
Quản thị tức là Quản Lộ. Đầu sách có lờii tựa của Quản Lộ, nói rõ động cơ viết sách: “Người ta sinh ra từ ngũ thổ (núi rừng, sông hồ, gò đống, nấm đất, đồng nội) do tác dụng của khí. Khí tắt thì chết, lại về với ngũ thổ, đấy là cái lẽ bạn bản hoàn nguyên”.
Trấp vu ngũ tự, cách vu ngũ phối, ngũ phối mệnh chi, ngũ tự ty chi, đấy là nguyên do họa phúc của con cháu… Có nghĩa là Quản Lộ dùng học thuyết Ngũ hành để luận việc trôn cất, giúp người hoàn nguyên, thống nhất tam tài (Thiên – Địa – Nhân) trong khí.
Toàn thư gồm 10 quyển: cộng 100 mục
– Quyển 1: hữu vô vãng lai, sơn khẩu phối thiên, phối tự, tướng thổ độ địa, tam kỳ, tứ trấn thập tọa, biện chính sóc, thích trung, càn lưu quá mạnh, tượng vật.
– Quyển 2: Khai minh đường, chi phân nghị hợp, thích tí vị, ly sào nhập lộ, hình thế dị tướng, triều tòng dị tướng, tam kinh thích vi, tứ thế tam hình, viễn thế cận hình, ứng án.
– Quyển 3: Lấy huyệt, đắc huyệt, lấy hướng, phúc hướng định huyệt, thừa hưởng vinh quang của tổ tông, cờ ngũ phương, tả hữu thích danh, ngũ quỷ khắc ứng, thù xá tường chẩn, khắc nhân thành thiên.
– Quyển 4: Tam đạo thích vi, địch mạch sùng thế, nhật giả như lữ, ngũ hành ngũ thú, phương viên tương thắng, ngụy kết, tâm mục viên cơ, thích danh, sơn thủy hội ngộ, thịnh suy cải độ.
– Quyển 5: Trạch thuật, tam ngũ thích vi, sơn thủy thích vi, giáng thế trú hành, ly thực thân ngụy, tầm long kinh tự.
– Quyển 6: Vọng thế tâm hành, thủy thành, dương minh tạo tác, trạch nhật thích vi, mê đồ quả học, sức phương thâu thuật.
– Quyển 7: Hang tuyệt động tĩnh, sư thông sư mình, tham kỳ thất hiềm, thông thế chi thuật, tam đình thích vi, xí mạch, bằng ngụy tang chân, quá mạch tán khí, tả hữu thắng phu, tinh thần thích vi, dự định họa phúc, ngũ hành tương đức.
– Quyển 8: Âm dương thích vi, sai sơn nhận chủ, ngũ hành biến động, du cung việt phân, ngũ hành chính yếu, di thiên phát việt, tứ cùng tứ ứng, nhị khí tòng đồng dị, hình thế nghịch tu, thịnh suy chính ứng, cô kỳ cức ngụy, khí mạch thể dụng.
– Quyển 9: Tham phong thất nghi, chi thân nghị hợp, nhân hình nghĩ huyệt, đắc pháp thủ huyệt, tứ thế tam hình, tam cát ngũ hung, hội tú triều tông.
– Quyển 10: Vinh tạ bất đồng, tam gia đoạn liệt bất đồng, hồi long cố tổ, khu ngũ quỷ, thuần túy thích vi, hào li thủ huyệt, diêm tị tuần hoàn, thích thủy thế, âm dương giao cảm, ngũ khí tường chẩn, cửu long tam ứng, hình huyệt sam sai, vọng khí tầm long.
Mục lục này giúp ta nhìn rõ tính hệ thống và tổng hợp của sách, đúng là không thiếu mặt nào, trong đó trọng điểm là âm dương ngũ hành, hình thế, huyệt, hướng, mặt trời.
Thiên “Ngũ quỷ khắc ứng” bàn về ngũ hành, viết: “Do đó thuật tầm long (tìm long mạch) quý ở chỗ biết thịnh suy của ngũ hành, để luận ra trong đục của hai khí âm dương”. Thiên “Tam cát ngũ hung” chỉ rõ: “Thủy có 5 dạng xấu (ngũ hung)” là bạo (ào ào), liêu (lênh láng), trọc (đục ngầu), lại (chảy xiết), than (xối xả), sơn có ngũ hung là “đồng (trọc), đoạn (đứt đoạn), thạch (đá), quá (vượt quá hình thế), độc (đơn côi)”.
Người có ngũ hung bệnh hoạn thương tật, tử biệt sinh ly, tai ương hoạn nạn, chết yểu đơn côi, điên cuồng nóng nảy. Địa thế có ngũ hung là cát đùn đá chồng, lũng sâu nước cạn, cao nhọn chênh vênh, lõm sâu nước đọng, lộ liễu điêu linh”. Sơn thủy có ngũ hung là “núi cao nước dốc, núi ngắn nước thẳng, núi dựng đứng nước bị cắt, núi rối rắm nước chảy lung tung, núi lộ ra hết, nước chảy đi”. Thôn xóm có ngũ hung là “ao đầm tù hãm, đồng ruộng chật hẹp, mương hố nước đọng, sa ghềnh nước réo, soi bãi chuyển dịch”. Âm dương có ngũ hung là: “dương phát âm hành, âm lai dương trú, âm kiềm đương lưu, âm lưu dương triệt (đứt đoạn) âm một (biến mất)”. Ta thấy những hình tượng xấu đều có thể qui nạp vào ngũ hành.
Thiên “Ngũ quỷ khắc ứng” trình bày về cát hung của địa hình: hình như cờ rủ, không hẹn ngày về, chân co đầu ngoảnh lại, phát tích ở nơi khác. Hình như trăng lưỡi liềm, tù đày cầm cố. Hai sừng không nhọn, của vào không ra. Hình như rùa nằm, mồ côi góa bụa. Đuôi rủ không vẫy, vậy là thế ngắn; hình như thước gấp, tay làm hàm nhai. Chặn ngang như cánh cung, cả đời khốn cùng. Hình như chữ Y, lập thân không ra gì. Trùng hôn lưỡng tính, qui tông có thể định. Hình như thuyền lật úp, chết bởi vết thương” …
(Theo sách “Đại điển tích văn hóa Trung Hoa – tập Bí ẩn của Phong thủy”)

5.                  Táng Thư: một tác phẩm tầm cỡ
Quách Phác đời Tấn soạn “Táng Thư”. Về Quách Phác đã giới thiệu riêng một thiên. Còn về “Táng Thư”, những nhà sử học triều Thanh đã giới thiệu cặn kẽ trong “Tứ khố toàn thư tổng mục – Táng Thư vấn đề”.
“Sách “Táng Thư”, bản cũ đề Quách Phác đời Tấn soạn. Phác có “Nhĩ Nhã Chú” đã được chép vào “Tứ khố toàn thư tổng mục”. Thuyết táng địa không rõ xuất xứ từ đâu. “Chu quan – Trủng nhân”, “Mộ Đại Phu” là chỉ tộc táng, là bằng chứng cụ thể từ đời tam đại chở về trước không chọn đất táng. “Hán Thư – Nghệ Văn Chí – Hình Pháp Gia” bắt đầu liệt kê địa hình cung trạch cùng với sách tướng nhân tướng vật, chắc là thuật này bắt đầu có từ đời Hán, mà chưa bàn riêng về táng pháp. “Hậu Hán Thư – Viên An truyện” chép cha của An mất, An đi tìm đất táng, giữa đường gặp 3 thư sinh chỉ một nơi phát đến thượng công. An nghe theo, nên nhiều đời phú quý. Như vậy, thuật này rất thịnh hành từ sau thời Đông Hán, mà nổi tiếng về thuật này là Quách Phác. Khảo cứu truyện về Phác, chép Phác theo Quách công được “Thanh nang trung thư” 9 quyển. Giảng kỹ thiên văn, ngũ hành và thuật bói toán. Môn nhân của Phác là Triệu Tải từng lấy trộm “Thanh Nang trung thư” rồi bị cháy mất, không thấy nói Triệu Tải viết “Táng Thư”. “Đường chí” có “Táng thư địa mạch kinh” một quyển, “Táng thư ngũ âm” 1 quyển, có người nói do Quách Phác soạn. Duy có “Tống chí” chép Quách Phác soạn “Táng thư” 1 quyển, vậy sách này mới có từ đời Tống. Sau đó, các nhà phương kỹ tranh khoe tài, lần lượt cho ra đời đến 20 thiên. Sái Nguyên Định chê rườm rà, bỏ đi 12 thiên, chỉ giữ lại 8 thiên. Ngô Chừng lại chê họ Sái chưa súc tích, nên chọn những chương nhuần nhuyễn làm nội thiên, nửa thô nửa tinh làm ngoại thiên, thô thiển nông cạn làm tạp thiên. Có người cho rằng Lưu Tắc Chương chú thích công trình biên tập của họ Ngô. Nay sách này chia thành nội thiên, ngoại thiên và tạp thiên đều là bản cũ của họ Ngô, còn Lưu Tắc Chương có là tác giả hay không, thì không thể khảo cứu. Lời ý của sách ngắn gọn, phải là tác phẩm do thuật sĩ thông chữ nghĩa viết ra, vì vậy phải là của Quách Phác, điều này không còn phải nghi ngờ gì nữa. Có thể là người đời thấy ông táng mẹ ở chỗ lẽ ra bị nước úng, vậy mà sau đó nước rút xa, nên đoán chắc sách này do ông soạn. Trong đó, di thể (hài cốt) được hưởng phúc ấm, khiến cho con cháu cảm ứng mà chịu họa phúc. Hoặc giả chỉ quản tạm một chỗ, hoặc phải di chuyển không táng vĩnh viễn ở một nơi, đã được thấu triệt ở các nhà Nho.
…Vương Y trong “Thanh nham tùng lục” chép: chọn đất để táng vốn là thuật của Quách Phác đời Tấn. Còn 20 thiên “Táng Thư” là do người đời sau viết ra và có tính chất hoang đường. Sái Nguyên Định từng bỏ đi 12 thiên, chỉ giữ lại 8 thiên. Đời sau chia thuật này thành 2 phái, một là phái theo phép Tông Miếu, khởi thủy từ Mân Trung, phép này có nguồn gốc sâu xa, đến Vương Cấp đời Tống thì lưu hành rộng khắp. Thuyết này chủ tinh (sao) quái, dương sơn dương hướng, âm sơn âm hướng, bất tương thừa thố, chỉ lấy thuần Bát quái, Ngũ tinh để luận sinh khắc. Thuyết này lưu hành ở miền trung Chiết Giang và được những người vận dụng hiểu rất sâu sắc. Hai là phái Giang Tây, do Dương Quân Tùng, Tăng Văn Thuyên, Lại Đại Hữu, và con cháu họ Tạ người cùng Cán, đều rất am hiểu thuật này. Thuyết Giang Tây chủ về hình thế, cứ nguyên dạng hình thế mà định phương vị, hình tượng. Chuyên phối hợp giữa long, huyệt, sa, thủy mà không câu nệ những cái khác. Thuyết này được tin dùng ở cả một dải Giang Nam. Hai trường phái tuy có khác nhau nhưng đều bắt nguồn từ luận thuyết của Quách Phác. Do vậy người ta mới nói rằng, các nhà địa học đều coi Phác là tổ sư. Và cũng vì vậy mà tuy sách có mượn tên giả danh, nhưng rốt cuộc không thể loại bỏ không dùng. Căn cứ vào tên sách “Táng Thư” mà “Tống sử” đã chép, người đời sau vì tôn sùng mà đổi thành “Táng Kinh”. Bản khắc của Mao Tấn Cập là khắc theo bản giả mạo hay không thì không có ai khảo cứu mà biết. Nay vẫn lấy tên sách cũ, để mở đầu cho từ nay chở đi.”
Chắc chắn là một bậc túc nho tinh thông thuật tướng địa viết lời giải đề trong “Tứ khố toàn thư tổng mục”, đã dẫn ở trên thì mới viết được chí tình chí lý như thế. Ý kiến đại thể có mấy vấn đề: Một là “Táng Thư” không phải do Quách Phác soạn thảo, mà là do người Đường – Tống ngụy tác. Hai là trong “Táng Thư” có những đoạn trình bày về Phong Thủy cực kỳ sống động, nhưng cũng có nhiều chỗ pha tạp lủng củng. Qua các triều đại, những người chỉnh lý “Táng Thư” là Sái Nguyên Định, Lưu Tắc Chương, Ngô Chừng,… Ba là thuật tướng địa có từ thời Đông Hán, sau chia thành hai phái, một phái bắt nguồn từ Phúc Kiến, một phái khởi thủy từ Giang Tây. Phái Phúc Kiến chủ tinh, quái; phái Giang Tây chủ hình thế, cả hai phái đều chung một ông tổ là Quách Phác, nhưng phái Giang Tây lưu truyền cực kỳ rộng rãi.
Đối với bất kỳ loại sách cổ nào, nhiệm vụ đầu tiên của ta khi đọc là phải xác định ai là tác giả cuốn sách, mới có thể bàn đến giá trị của sách đó. Học giả Diêm Nhược Cứ đời Thanh – Khang Hy trong “Thượng thư cổ sơ chứng” đã viết: “Than ôi, không có sự việc nào to hơn chuyện háo cổ, không có học vấn nào giỏi hơn chuyện phân biệt thật, giả”. Cùng thời kỳ đó, một học giả tên là Diêu Tế hằng khổ công nghiên cứu, đã viết “Cổ Kim Ngụy Thư” (sách giả) khảo (cứu), phủ nhận Quách Phác viết Táng Thư, ý kiến của ông rất mới, nhưng không trình bày được lý lẽ. Năm Càn Long soạn “Tứ khố tổng mục đề yếu”, vị túc nho viết: “Táng thư giải đề” đã khảo sát đến nơi đến chốn thời gian ra đời sách này. Xếp Táng Thư vào sau Trạch Kinh trong Tứ Khố Toàn Thư – Tí bộ – Thuật số. Cách xếp như vậy là đáng tin. Có điều, trong “Táng thư giải đề” khi nêu hai phái, chưa chỉ ra được phái nào có quan hệ với Quách Phác như thế nào, ai giả, ai thật? Chỉ cần ta đọc “Tấn Thư – Quách Phác truyện” và văn bản có liên quan, dễ dàng nhận thấy Quách Phác lấy học thuyết âm dương để chỉ đạo thuật tướng địa, áp dụng phương pháp bói toán mà chưa bao giờ bàn về hình thế, càng không bàn đến long huyệt. Do đó trường phái Phúc Kiến gần giũ với thuật tướng địa của Quách Phác. Học thuyết của phái này ảo diệu, không dễ gì hiểu được, vì vậy, không được nhiều người tin theo. Từ đó suy ra thuật tướng địa của Quách Phác lưu hành bị hạn chế. Phái Giang Tây có kiến giải riêng, coi trọng hình thế, tính thực tiễn cao, mọi người có thể mục kích hình dáng của sơn thủy, lại thêm các thầy phong thủy giải thích về long huyệt, nên đua nhau tin theo, không chút nghi ngờ. Cả hai phái đều không hoàn toàn kế thừa Quách Phác, mỗi ngày đều mở rộng ra, nhưng phái nào cũng cần có một người có tiếng tăm để làm chỗ dựa, để được coi là chính tông, và thế là Quách Phác chở thành tổ sư của họ.
Dưới đây ta hãy xem xét “Táng Thư”
“Táng Thư” còn có tên là “Táng Kinh” sách này có nhiều bản đều được đưa vào Địa Lý Toàn Thư, Tân Đãi Bí Thư, Học Tân Khảo Nguyên, v.v…
“Táng Thư” đưa toàn bộ nội dung của thuật tướng địa qui về phong thủy, cho rằng chuyện họa phúc, sang hèn, giàu nghèo của mỗi người được quyết định bởi phong thủy nhà ở, phần mộ tổ tiên tốt hay xấu. Sách giải thích rất rõ từ “phong thủy”: “Táng (chôn cất) là nhận được sinh khí, phàm là khí âm dương, thở thì thành gió, bay lên thành mây, rơi xuống thành mưa, lưu hành trong đất thành sinh khí, sinh khí vận chuyển trong lòng đất mà sinh ra vạn vật. Con người ta được cha mẹ cho thể xác, hình hài được khí, di thể (xác chết) được ấm (nhận được phúc ấm). Do vậy, sống là sự ngưng tụ của khí, kết thành xương cốt, khi chết chỉ còn lại xương, do vậy táng là phản khí nội cốt để sinh phúc ấm”. Kinh viết: “khí cảm ứng mà đem họa – phúc đến cho người, vì thế núi Đồng ở phái tây lở, thì linh ứng nên chuông ở phía đông tự phát ra tiếng kêu”, cây ra hoa ở mùa xuân, quả lật mọc mầm ở trong nhà. Khí vận hành ở trong đất, theo địa thế mà vận hành, địa thế mà dừng thì khí tụ tại. Núi non là xương, gò đống là chi nhánh, khí theo đó mà vận hành. Kinh viết: Khí gặp gió tất tản mát, gặp nước chặn lại thì ắt dừng, người xưa làm cho khí tụ lại mà không tản đi, khiến khí vận hành mà có khi dừng lại, đó là phong thủy”. Đoạn văn trên trình bày về “thuyết sinh khí” dùng “khí” để giải thích cơ thể con người, nhấn mạnh rằng chỉ có phong thủy mới bảo tồn được người chết trong khoảng trời đất.
Làm thế nào để giữ được phong thủy? Táng Thư trả lời: “Phép phong thủy đắc thủy là tốt nhất, tàng phong là thứ hai… nông hay sâu để nhận được (sinh khí), là tự thành phong thủy. Đất là mẹ của khí. Có đất tất có khí. Khí là mẹ của nước. Có khí tất có nước, do đó nơi khô ráo thì nên táng nông, nơi bằng phẳng thi nên táng sâu”. Đoạn văn này trình bày mối quan hệ trong thiên nhiên đất – khí – nước, nhấn mạnh phải chú ý đến độ nông sâu của đất.
“Táng Thư” trình bày tiếp về địa hình, giới thiệu phép táng ở chi, lũng (bờ ruộng): “Đất quí ở bằng phẳng, chất đất quí ở phân nhánh. Có chi là có khí đi theo, hết chi là khí tụ lại. Phép quan chi là xem được sự ẩn hiện của chi, ảo diệu vô cùng… Chi táng ở đỉnh, lũng táng ở chân, chọn chi như đầu, chọn lũng như chân”. Và phân biệt rõ sự khác nhau giữa hình và thế: “nghìn thước là thế, trăm thước là hình”.
Ngoài ra, sách còn giới thiệu một số điều cấm kị: có năm dạng núi không thể táng: khí sinh nhưng núi trọc, khí đến theo hình nhưng núi đứt đoạn, khí vận hành theo đất nhưng núi là núi đá, khí đã dừng theo thế nhưng núi vẫn vượt qua, khí long hội nhưng gặp độc sơn (núi đứng một mình).
Như vậy có nghĩa là các dạng núi: trọc, đứt, đá, quá, độc đều không được táng, nếu không sẽ “sinh tân hung, tiêu kỷ phúc” (sinh điều dữ, mất phúc vốn có).
Táng Thư còn giới thiệu, bên trái người dưới mộ là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ, phía trước là Chu Tước, phía sau là Huyền Vũ. Đây chính là thuyết Tứ Linh làm tứ phương sau này.
Cuối cùng, Táng Thư khái quát thành “huyệt” có ba điều lành, táng có sáu điều dữ: Táng thần hợp sóc, thần nghinh quỷ tị, điều lành thứ nhất; ngũ thổ tứ bị, điều lành thứ hai; sức nhìn rõ, công lực đủ, giành cái trọn vẹn tránh được cái thiếu, tăng cao lấn thấp, điều lành thứ ba. Sáu điều dữ là: âm dương không khớp, phạm giờ phạm năm, lực nhỏ tham vọng lớn, chỉ dựa vào phúc lực, nịnh trên đè dưới, ứng biến quái kiến”.
Nội dung Táng Thư ngắn gọn, tất cả không hơn hai nghìn chữ, nhưng câu chữ đắt nghĩa, đề cập đến nhiều mặt. Nội dung khái quát gồm có: Táng thừa sinh khí, khí cảm nhi ứng, vị chi phong thủy, phong thủy tự thành, thổ hành khí hành, hành chỉ khí súc, chi táng lũng táng, phúc họa chi sai, tị kỳ sở hại, nhược hoài vạn bảo, nhược khí chi trữ, nhược long nhược loan, triều hải cung thìn, long hổ cưỡng vệ, ngũ sơn bất táng, cát thế hung thế, tứ thế bát phương, tam cát lục hung.
Qua nội dung ta thấy Táng Thư gần như không thấy nói về tinh, quái, tôn miếu, mà nói về hình thế, sinh khí. Điều này không hợp với hành vi lúc sinh thời của Quách Phác là rất giỏi lấy bát quái để dự đoán mọi việc. Một con người đặc biệt tôn sùng dịch lý và tinh tượng, sao không bàn về cái mà mình sở trường trong tác phẩm? Vậy thì làm sao có thể nói sách này là của Quách Phác?
Sách này trước sau vẫn 18 lần nhắc đến “kinh nói rằng”, một lần nhắc đến “Trạch kinh nói rằng”. Có thể thấy, đây không phải tác phẩm đầu tiên nói về thuật tướng địa, mà là viết sau khi có “Trạch kinh”. Các mục lục sách trước đời Đường không chép sách này. Do các nhà làm mục lục sơ suất chăng? Một bộ sách mà các thầy phong thủy tôn làm kinh điển thì sao lại có chuyện sơ suất? Chỉ có thể nói sách này ra đời từ Đường hoặc sau Đường.ST

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét