Quan niệm về thuyết
phong thủy và mộ táng của người xưa (P.1)
Người ta thường nói: “Táng tiên ấm hậu” tức là chọn đất
mai táng tổ tiên để tổ tiên phù hộ cho con cháu được hưởng phúc lộc. Tất cả những
hoạt động có liên quan đến việc chọn đất mai táng hoặc đất làm nền nhà được người
xưa gọi là thuyết phong thủy hoặc thuật phong thủy.
Những người am hiểu các lý thuyết phong thủy,
biết làm những pháp thuật huyền bí như quan sát địa hình, địa thế để tìm “long
mạch”, để định vị phương hướng… là các thầy địa lý hoặc thầy phong thuỷ, ở
Trung Quốc gọi là kham dư gia (kham nghĩa là trời, là đạo trời, dư là đất, là địa
lý, gia là nhà tức là người am hiểu về đạo trời và địa lý).
Những người này lấy hoạt động phong thuỷ
làm nghề mưu sinh và phục vụ cho nhu cầu bức thiết của xã hội và cũng được xã hội
coi trọng. Ví dụ như: Quách Phác đời Tấn bên Trung Quốc, thầy Tả Ao đời Lê-Trịnh
của Việt Nam.
Thuyết phong thuỷ được phát triển gắn liền
với tên tuổi của Quách Phác và trước tác nổi tiếng do ông soạn là: “Táng thư”,
còn được gọi là “Táng kinh”. Quách Phác đời Tấn là người đầu tiên giải thích
khái niệm phong thuỷ và từ đó thuyết phong thuỷ có cơ sở lý luận ổn định và
phát triển.
Trong “Táng thư”, Quách Phác viết: “Việc
mai táng là để tích tụ sinh khí. Sinh khí gặp gió thì tản đi, gặp nước ngăn thì
dừng lại. Vì vậy gọi là thuật phong thuỷ” Khi chú giải “Táng thư”, ông Phạm
Nghi Tân (đời Thanh), viết thêm rằng: “Không có nước ngăn lại thì sinh khí sẽ bị
gió cuốn làm cho tan đi, có dòng nước ngăn lại thì sinh khí ngưng tụ và gió
cũng không còn nữa.
Vì thế hai chữ Phong và Thuỷ (gió và nước)
là hai yếu tố quan trọng nhất của thuyết địa lý, mà trong đó “đắc thuỷ” (chỉ chỗ
đất có dòng nước chảy quanh) là điều quan trọng hơn hết. Sau đó mới kể đến “
tàng phong” hay “tỵ phong” (tức là thu giữ gió hay kiêng tránh gió) là điều
quan trọng thứ hai”
Như vậy, theo lý thuyết kinh điển về phong
thuỷ, chỉ có trong điều kiện “tàng phong” và “đắc thuỷ” thì mới tích tụ và giữ
gìn được sinh khí. Vậy sinh khí là gì? Sách Lã Thị Xuân Thu giải thích rằng
sinh khí là do dương khí thịnh mà phát tiết ra.
Sinh khí là nguyên tố đem lại sức sống cho
mọi sinh vật, là cái khí làm cho mọi vật nẩy nở và trưởng thành. Sinh khí luôn
luôn tồn tại và vận hành trong lòng đất. Tùy theo hình thế cao thấp của đất mà
sinh khí vận động, khi chuyển đi, khi tụ lại, biến hóa mà phát sinh ra vạn vật,
kể cả phát sinh ra con người.
Chính vì vậy mà muôn vật đều xuất phát, đều
bắt nguồn từ trong lòng “đất mẹ vĩ đại”. Cho nên thuyết phong thủy quan niệm đất
là “Đại mẫu”. Thuyết phong thủy lấy âm dương ngũ hành làm nguyên lý cơ sở. Kim,
mộc, thuỷ, hỏa, thổ là 5 yếu tố cơ bản cấu thành thế giới, trong đó Thổ là yếu
tố quan trọng bậc nhất (là Trung ương), mà Thổ thuộc quẻ “Khôn” tức là thuộc âm
tính, là giống cái.
Sinh khí bao hàm trong nó 2 yếu tố âm và
dương, cũng như 5 yếu tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ chúng kết hợp, nương tựa,
tác động lẫn nhau, đồng thời cũng ức chế lẫn nhau theo quy luật tương sinh,
tương khắc. Sinh khí biến hóa, vận động, di chuyển trong lòng đất phát sinh ra
muôn vật.
Các nhà phong thủy quan niệm rằng: sinh khí
không phải chỉ tồn tại và vận hành trong lòng đất, mà dĩ nhiên cũng tồn tại
trong bản thân mỗi con người. Con người cũng như hết thảy mọi vật đều do sinh
khí cấu tạo thành.
Nhà phong thuỷ nổi tiếng đời Minh là Tưởng
Bình Giai, khi bàn về “sự vận động thần diệu của khí” trong sách Thủy song kinh
có viết: “Cái đầu tiên duy nhất chỉ là khí, tiếp ngay sau đó là nước. Không có
gì xuất hiện trong nước, trong nước có những hạt cặn đục lắng đọng lại thành ra
sông núi”.
Tưởng Bình Giai quan niệm sinh khí không những
tạo ra diện mạo của sông, núi, cảnh quan môi trường xung quanh con người, mà
còn tạo ra chính bản thân con người, thậm chí sinh khí còn được duy trì bảo lưu
ngay sau cả khi con người đã chết.
Tưởng Bình Giai nói: “Sinh khí kết tinh
trong cơ thể của cha mẹ dưới hình thức nước, nó được di truyền cho con cháu. Do
vậy mà con cháu thụ hưởng được sinh khí của cha mẹ”. Ông còn nói tiếp: “Khi con
người sống, khí ngưng tụ, kết tinh ở trong xương, khi chết đi thì chỉ có khí được
giữ cùng với xương”, “vì vậy việc mai táng là để cho sinh khí tiếp tục trở lại
với hài cốt”.
Quách Phác đời Tấn và Tưởng Bình Giai thời
Minh đều khẳng định như vậy. Nhưng mai táng như thế nào để tích tụ được sinh
khí, đưa sinh khí trở về với hài cốt. Đây chính là chức năng và bí quyết của
các nhà phong thuỷ.
Thuyết phong thuỷ cho rằng, muốn đưa sinh khí trở về với
hài cốt, muốn sinh khí được bảo lưu, được tích tụ và duy trì được lâu dài thì
phải biết chọn đất mai táng (âm trạch), nơi có nhiều sinh khí.
Quan niệm về thuyết
phong thủy và mộ táng của người xưa (P.2)
a) Xác định Long mạch
(mịch long):
Thuyết phong thủy cho rằng sinh khí vận
hành trong lòng đất dựa theo hình thế của núi. Cần xem xét núi bắt đầu từ đâu
và dừng lại nơi nào? Nơi núi dừng lại có địa thế bằng phẳng rộng rãi, có dòng
nước chảy uốn quanh kề gần, huyệt đất đó sẽ tích tụ được nhiều sinh khí, huyệt
đất đó có long mạch, tức là nơi “cát địa” hay “phúc địa”.
Núi bắt đầu từ xa chạy đến gọi là thế. Nơi
núi dừng lại gọi là hình. Thế thì bao quát, hình thì cụ thể. Thế càng cao xa
thì hình càng có chỗ dựa vững chắc, nơi cát địa đó sẽ mang lại nhiều phúc lộc
cho con cháu.
Muốn tìm được cát địa, phải “sát sa” tức là
phải quan sát, xem xét những ngọn núi xung quanh huyệt mộ (âm trạch), phải đạt
được các tiêu chí sau đây:
- Huyệt mộ phải dựa lưng vào ngọn núi cao gọi là Huyền
Vũ. Bên tả có núi gọi là Thanh Long, bên hữu có núi gọi là Bạch Hổ, hai ngọn
núi này đứng chầu vào huyệt mộ, tạo thành vòng tay ngai che chống những luồng
ác phong (gió độc), bảo vệ sinh khí không bị gió xua tan.
Phía trước mặt huyệt mộ có một hòn núi nhỏ
án ngữ gọi là Án Sơn (được gọi là Chu Tước), như người đứng khoanh tay, vái
chào huyệt mộ. Ngoài xa cũng có một ngọn núi chầu về huyệt mộ gọi là Triều Sơn
(núi chầu).
Khi sát sa thấy có đủ hình thế tứ linh
(long, lân, quy, phượng- bốn con giống theo thần thoại) thì huyệt đất đó có đủ
điều kiện để tích tụ sinh khí, tức là có long mạch.
b) Quan thuỷ:
Đây là phương pháp rất quan trọng. Vì theo
thuyết phong thuỷ thì “đắc thuỷ” mới là yếu tố hàng đầu.
Thuyết phong thuỷ cho rằng khí là cha mẹ của
nước, là bản thể của nước. Nơi nào có sinh khí, tất nhiên ở đó có nước. Nước là
cái khí hữu hình, trong khi khí là vô hình. Ngược lại nơi nào có nước, chứng tỏ
ở đấy có sinh khí.
Mặt khác, thổ là hình thể của khí. Trong điều
kiện Thổ bị dòng nước cắt ngăn và giới hạn lại thì khí cũng theo Thổ mà dừng lại,
không di chuyển phân tán được.
Các thầy địa lý khảo sát, xem xét các dòng
sông, dòng suối, ao hồ xung quanh huyệt mộ (tức âm trạch). Dòng sâu, nguồn dài
là khí vượng, dòng cạn, nguồn ngắn thì phúc lộc ít.
Dòng nước chảy tới quanh co, uốn khúc hoặc
chảy ngang qua mà vòng quanh trở lại bao bọc âm trạch, dòng nước chảy du dương,
êm đềm là rất tốt, nếu dòng chảy xói thẳng vào huyệt như tên bắn, chảy sát huyệt
mộ gây xối lở thì rất xấu.
Sau khi đã xác định được long mạch (mịch
long) và quan thủy, thầy địa lý (phong thuỷ) mới tiến hành điểm huyệt và xác định
minh đường.
Việc điểm huyệt và xác định minh đường yêu
cầu phải rất thận trọng, vì đây là mục đích cuối cùng phải đạt được khi ứng dụng
thuyết phong thủy. Việc làm này thật không đơn giản chút nào. Vì vậy, tục ngữ mới
có câu: “Ba năm tầm long, mười năm điểm huyệt”.
Đất điểm huyệt có khi chỉ là mấy thước, có
khi cũng có thể là mấy dặm. Địa điểm đó phải là nơi tích tụ được sinh khí,
không hề làm cho sinh khí tiêu tán, đồng thời không ngừng hấp thụ được nguồn
sinh khí của tự nhiên, của “đất mẹ”, thường xuyên tiềm ẩn và vận hành trong
lòng đất.
Khoảng đất bằng phẳng rộng rãi bao bọc xung quanh huyệt mộ
gọi là Minh đường.
Tiểu minh đường là quãng đất hẹp kề ngay trước huyệt mộ.
Trung minh đường (nội minh đường) là khoảng không ở phía
trong các núi.
Thanh Long, Bạch hổ.
Đại minh đường (ngoại minh đường) ở phía ngoài án sơn.
Minh đường và hình thế của núi có quan hệ mật thiết, cần
đạt được tỷ lệ thích hợp. Mạch núi từ xa đến thì minh đường rộng; Mạch núi ở gần
thì minh đường hẹp. Nếu minh đường quá khoáng đãng thì sinh khí dễ phát tán. Nếu
minh đường quá chật hẹp thì phúc lộc không được lâu bền.
Quan niệm về thuyết
phong thủy và mộ táng của người xưa (P.3)
Tóm lại, ứng dụng thuyết phong thuỷ, sử dụng các thủ pháp
chuyên môn, các nhà phong thuỷ (thầy địa lý) có thể phát hiện và điều chỉnh những
khu đất có nhiều sinh khí để mai táng hoặc để xây dựng các công trình kiến trúc
như nhà ở, cung điện, thành trấn, thôn lạc v.v…
Đến đây một câu hỏi nữa được đặt ra là tại
sao việc chọn đất có sinh khí để mai táng tổ tiên lại có thể đem phúc lộc cho con
cháu, tức là “táng tiên” lại có thể “ấm hậu”.
Trong trước tác “Táng thư”, Quách Phác đã
nêu luận điểm: “Khí cảm như ứng, quỷ phúc cập nhân”, có nghĩa là những vật đồng
chất với nhau có quan hệ cảm ứng lẫn nhau.
Quỷ mà Quách Phác viết trong “Táng thư” là
cha mẹ hoặc tổ tiên sau khi đã chết (theo cổ tự quỷ có nghĩa là quy, là về, là
chết). Thuyết phong thuỷ quan niệm chết là về với đất, về với “đại mẫu” để chuẩn
bị cho giai đoạn tái sinh kiếp sau.
Vậy “quỷ” chính là tổ tiên, là cha mẹ đã chết,
con “nhân” là những con cháu đang sống, là di thể của cha mẹ để lại.
Vì vậy, tổ tiên, cha mẹ và hậu duệ con cháu
là đồng khí, là một chất, chúng có quan hệ cảm ứng với nhau. Cho nên “quỷ phúc
cập nhân” nghĩa là tổ tiên mang lại phúc ấm cho con cháu.
Trong sách “Táng thư”, Quách Phác còn giải
thích thêm: “Thi dĩ đồng sơn tây băng, linh chung đồng ứng, mộc hoa vu xuân, lật
nha vi thất”. Nghĩa là “mỏ đồng ở phía tây bị sụt lở thì chuông thiêng ở phía
đông cũng ứng theo (chuông tự kêu). Mùa xuân cây lật nở hoa thì quả lật ở trong
phòng cũng nẩy chồi”.
Như vậy, ý của Quách Phác nói: Chuông đồng
và mỏ đồng cùng một khí chất, cây lật và quả lật cùng một khí chất, mặc dầu
chúng để ở nơi cách biệt nhau, nhưng vẫn có quan hệ cảm ứng theo lẽ tự nhiên của
tạo hoá. Vì thế tổ tiên, cha mẹ tuy đã chết, nhưng vẫn có thể phù hộ cho con
cháu, hậu duệ của mình bằng cảm ứng.
Nhà phong thuỷ Quách Phác đã lấy một sự kiện
đời Hán Vũ để chứng minh cho quan hệ cảm ứng: Có một quả chuông treo ở lầu Vi Ưởng
tại kinh đô Tràng An, một hôm bỗng nhiên quả chuông tự kêu “ô ông…ô ông”. Các vị
đại thần hôm ấy vô cùng kinh sợ, cho đó là điềm xấu.
Đông Phương Sóc là người có trí tuệ siêu quần thời bấy giờ,
đứng lên tâu rằng: “Nhất định lúc này đã có núi đồng khoáng sụt lở”. Mấy ngày
sau, quả nhiên có tin từ miền biên cảnh phía Tây xứ Thục báo cáo về triều đình
rằng ở đó núi đồng khoáng đã lở vào ngày giờ ấy. Triều đình đem đối chiếu lại thì đúng vào
lúc chuông đồng ở cung Vi Ưởng phát ra tiếng kêu. Hán Vũ đế kinh ngạc hỏi vì
sao mà Đông Phương Sóc biết được như vậy? Đông Phương Sóc đáp: “Đồng đúc chuông
lấy từ mỏ đồng trên núi, khí của chúng cảm ứng nhau mà phát ra tiếng kêu, giống như thân thể người ta là do cha mẹ
sinh ra vậy”. Hán Vũ đế chép miệng than rằng: “Vật còn như vậy, huống chi người
ta”.
Các nhà phong thuỷ cũng thường kể chuyện bà
mẹ ông Tăng Tửng để biện minh cho thuyết cảm ứng. Chuyện kể rằng: đời Xuân Thu, ông Tăng Tử
là người con rất mực hiếu thảo, mỗi khi Tăng Tử đi xa, vắng nhà, mẹ Tăng Tử ở
nhà nhớ con da diết, thường cắn vào ngón tay để kiềm chế niềm thương. Tăng Tử ở
ngoài xa, mỗi khi ở nhà mẹ cắn ngón tay như vậy thì ông cảm thấy đau nhói ở
tim. Điều đó chứng tỏ giữa mẹ
và con có mối quan hệ cảm ứng vô hình, nhưng sâu sắc biết chừng nào. Như vậy từ thời xưa thuyết
phong thủy hướng dẫn cho con người tìm huyệt đạo cát địa (phúc địa) để mai táng
tổ tiên, cha mẹ hoặc làm nhà ở, dựng cung điện, thành quách v.v… đã có tác động
đến đời sống của con người, đã trở thành một bộ phận văn hoá phương Đông nói
chung và văn hóa Việt Nam nói riêng.(Hết).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét