Niên nguyệt nhật thời phi tinh & Thần Sát
Niên nguyệt phi tinh
Chuyển động của khí trong vũ trụ
thay đổi tuỳ theo năm, tháng, ngày, giờ.
Mỗi năm(hoặc tháng, ngày, giờ) có
một sao chủ. Sao chủ của năm chiếm vị trí trung tâm của lường thiên
xích. Các sao khác bài bố theo lường thiên xích thuận ta được tinh
bàn của năm. Tương tự ta được tinh bàn của tháng, ngày hoặc giờ. Sao
chủ của năm bắt đầu vào ngày đầu tiên của năm âm lịch tức ngày của
tiết lập xuân.
Ảnh hưởng mạnh nhất của niên tinh
và nguyệt tinh là nơi có cửa, ngõ ra vào nhà, sau đó là bếp và
phòng ngủ. Kết hợp với sơn hướng tinh đang ở đó để tạo nên hoạ phúc
cho những người sống trong nhà vào thời điểm đó.
Niên tinh có tầm ảnh hưởng cho suốt
năm
Nguyệt tinh ảnh hưởng trong tháng
Nhật tinh ảnh hưởng trong ngày
Thời tinh ảnh hưởng trong giờ.
Quyền uy của niên nguyệt cửu khí
Niên nguyệt cửu tinh trong lúc liên
tục vận hành trong đại khí, đều chứng tỏ quyền uy của nó. Cửu tinh
có khí có số mà vô hình, nên mới gọi là cửu khí. Cứ thử xem sự
thực vào mọi thời, ở mọi chỗ, thì sẽ thấy ngay quyền uy đó. Của ta
đấy mà trong chớp mắt đã bị cướp đoạt, cho nên phú quí chẳng được
hưởng lâu. Vinh đấy mà trong chớp mắt đã thành nhục, cho nên sự cao
quý chẳng trường tồn. Mạnh đấy mà trong chớp mắt đã thành yếu, cho
nên mấy ai có quyền thế mãi. Sống đấy mà trong chớp mắt đã bị
giết, cho nên chẳng mấy ai thọ lâu. Trong một ngày đêm, hàng vạn người
sinh tử. Ở khắp chốn, bao điều thành bại. Nếu lấy niên nguyệt cửu
tinh mà xét, thì sẽ thấy nguyên nhân, vết tích của hết thảy mọi
việc. Nên nhớ đến quyền uy tối cao của cửu khí, mọi vật có hình có
khí đều bị nó chi phối và chế định.
Tuy nhiên, các thiên tinh còn tuỳ theo
phương vị mà tác động, mọi phương vị còn tuỳ theo nơi sở tại mà
biến đổi. Nếu biết dự đoán sự biến đổi của khí số trong hiện tại
và tương lai, tuỳ thời thay đổi nơi sở tại, thì chỉ trong khoảng khắc
đã có thể chuyển hoạ thành phúc, chuyển nguy thành an. Các nhà hiền
triết thường nói:" Cùng tắc biến, biến tắc thông" là vậy.
Mọi sự bất hạnh đều do loài người khi hành động đã tiến dừng tuỳ
tiện, khi không hành động đã khư khư giữ nguyên hiện trạng, phó mặc
cho niên nguyệt thiên tinh chi phối, vô hình chung bị xử lý một cách
tàn nhẫn. Có nhiều tai hoạ do người ta không hiểu biết mà ra.
Cửu tinh niên nguyệt nhật thời có
tác dụng rất lớn. Vạn sự vinh nhục, được mất, sinh diệt thành bại
của nhân gian đều do quan hệ giữa khách tinh niên nguyệt nhật thời với
chủ tinh vốn có của các bổn trạch là tỷ hoà, sinh nhập khắc nhập
hay sinh xuất khắc xuất mà phát sinh mọi biến hoá.
Sự tương quan giữa niên tinh và hướng tinh
khi xét đến niên tinh ở những nơi có
cửa mà người trong nhà thường ra vào thì ta phải kết hợp giữa niên
tinh và hướng tinh tại cung đó là tỷ hoà, sinh nhập khắc nhập hay
sinh xuất khắc xuất ta còn coi sự kết hợp thành các cặp số tiên
thiên. Rồi mỗi tháng lại có nguyệt tinh đến kết hợp với niên tinh ta
cũng phải xét cho kỹ.
Ngoài ra còn một số trường hợp
hoạ, phúc sau;
- Niên tinh và hướng tinh cộng lại
thành mười (hợp thập): Nhà tuy đang bị hướng tinh là thoái, suy hay
tử khí mà khi niên tinh và hướng tinh hợp thập thì biến hung thành
cát, dĩ nhiên là chỉ trong năm đó mà thôi. Thí dụ: nhà toạ dậu
hướng mão vận 8 có tử khí tứ lục ở hướng nên nhà gặp rất nhiều
khó khăn. Năm 2010 bát bạch nhập trung cung, niên tinh lục bạch tới
hướng ĐÔNG hợp thập với hướng tinh tứ lục, năm này chắc chắn sẽ là
1 năm nhiều may mắn. Dĩ nhiên là còn xét theo từng tháng nữa.
_ Niên tinh và hướng tinh hợp thập
toàn bàn hợp thập: Nếu được toàn bàn niên tinh và hướng tinh hợp
thập thì sự tốt đẹp còn nhiều hơn nữa: Thí dụ nhà toạ dậu hướng
mão vận 7 là vượng sơn vượng hướng trong vận 7, qua vận 8 thì trở
thành suy mà làm cho gia đạo nhiều khó khăn. Năm 2013 ngũ hoàng nhập
trung cung, niên tinh và hướng tinh toàn bàn hợp thập, năm này sẽ sẽ
là một năm tốt đẹp đối với gia đình đó.
_ Hai trạch âm dương( âm phần và dương
trạch) Hướng tinh là suy tử chữ nào, gặp niên tinh tới hướng cùng
chữ ấy thì chủ về tổn hại nhân đinh, thí dụ: Nhà toạ dậu hướng
mão, hướng tinh suy tử là 4 thì đến năm có niên tinh tứ lục tới
hướng thì nhà có tai hoạ.
_ Niên tinh đương vượng là tử bạch (1,6,8,9)đến hướng không vượng: Nếu niên tinh đương vượng là tư,̉ bạch đến nhà có hướng không vượng thì năm đó sẽ có tai hoạ đến. Thí dụ: Nhà toạ dậu hướng mão vận 8 có hướng tinh ở hướng tứ lục là tử khí. Năm 2008 niên tinh bát bạch là vượng khí đến hướng, nhà có tai hoạ.
_ Niên tinh đương vượng là tử bạch (1,6,8,9)đến hướng không vượng: Nếu niên tinh đương vượng là tư,̉ bạch đến nhà có hướng không vượng thì năm đó sẽ có tai hoạ đến. Thí dụ: Nhà toạ dậu hướng mão vận 8 có hướng tinh ở hướng tứ lục là tử khí. Năm 2008 niên tinh bát bạch là vượng khí đến hướng, nhà có tai hoạ.
Hóa giải hung sát
Vấn đề hoá giải hung sát với niên
nguyệt nhật thời phi tinh chủ yếu dựa trên nguyên lý ngũ hành sinh
khắc
Những phương pháp thông thường;
_ Chuông gió ( Windchime): Thường dùng
loại 6 ống rỗng bằng kim loại, ống ngắn nhất cũng phải 20cm. Dùng
để hoá giải ngũ hoàng đại sát và sao nhị hắc. Chuông gió thuộc kim
mà ngũ hoàng và nhị hắc thuộc thổ, thổ sanh kim.
_ Hũ muối : Dùng một hũ sành ( có
thể dùng bình cắm hoa ) dung tích khoảng 2 lít. Bỏ vào 1kg muối
biển(muối hột) + 6 đồng tiền bằng đồng (2000 đ VN) + đổ nước gần đầy
+ đậy bằng 1 miếng kim loại trên đục mấy lỗ cho thông khí. Đặt vào
cung hướng có hung tinh. Hoá giải sao ngũ hoàng và nhị hắc (thường
tại bếp hoặc phòng tắm). Nếu hoá giải thất xích thì thêm 1 đồng
bằng bạc.
Tuy nhiên vấn đề hoá giải cũng còn
tuỳ theo vận sơn hướng tại cung đó. Sau đây là ý kiến của bác BNQ về
vấn đề này:
Vấn đề luận đoán niên, nguyệt thời tinh
tuy chủ yếu là dựa vào Ngũ hành sinh, khắc của chúng với với vận-sơn-hướng tinh
tại nơi đó (nhưng chủ yếu vẫn là với Hướng tinh), nhưng nhiều khi cũng rất phức
tạp, và đòi hỏi nhiều công phu thực tập cũng như kiểm chứng lâu dài mới có thể
thành thạo và thông suốt được. Tuy lúc đầu thì thấy ngũ hành của chúng có vẻ
đối chọi nhau, nhưng sau nhiều năm luận đoán sẽ không còn nhận thấy như thế
nữa. Lấy thí dụ như nhà có hướng tinh 8, gặp năm có niên tinh 7, nguyệt tinh 9,
nhật tinh 3, thời tinh 1.
Vì Hướng tinh 8 Thổ gặp niên tinh 7 Kim
tức là bị sinh xuất, nên biết nhà này năm đó dễ bị hao tài hoặc làm ăn khó
khăn, thu nhập kém. Gặp tháng có nguyệt tinh 9 Hoả tới, trên danh nghĩa là sinh
cho Hướng tinh 8 Thổ, nhưng vì niên-nguyệt tinh 7-9 gặp nhau kết hợp thành Hoả
tiên thiên, Hoả khí nhiều nên dù có sinh nhập cho Hướng tinh, nhưng vẫn chủ
nhiều chuyện bực bội, nóng nảy và hao tán tài lộc.
Lại thêm nhật tinh 3 Mộc sinh Hoả, nên
ngày đó nếu không có chuyện hao tiền thì cũng có chuyện bực bội, cãi vã. Rồi
thời tinh 1 Thuỷ tới sinh cho Mộc để Mộc sinh Hoả, nên mầm mống bực bội hoặc
hao tài đã bắt đầu, chờ đến giờ sau khi thời tinh 9 tới thì sẽ bùng nổ mà thôi.
Dĩ nhiên là nếu những giờ đó xảy ra vào ban đêm thì không sao, vì lúc đó mọi
người đã ngủ, hung khí không bị động thì sẽ không gieo rắc tai hoạ. Ngoài ra,
nếu những nguyệt, nhật, thời tinh này kéo đến trong mùa xuân, hạ thì mức độ
xung đột cũng ác liệt hơn trong mùa thu hoặc đông.
Hơn nữa, nếu nhà này hướng NAM, ĐÔNG hoặc
ĐÔNG NAM thì mức độ hao tiền hoặc xung đột cũng mạnh mẽ hơn những nhà hướng
BẮC, TÂY, TÂY BẮC, ĐÔNG BẮC hoặc TÂY NAM. Đó là chưa kể hình dáng bên ngoài,
cũng như cấu trúc và màu sắc bên trong căn nhà sẽ gia, giảm thêm cho những tai
hoạ đó nữa.
Vấn đề hoá giải hung sát (nhất là đối với
niên, nguyệt tinh) tuy chủ yếu vẫn dựa vào nguyên lý Ngũ hành sinh, khắc, nhưng
đôi khi cũng rất phức tạp, và phải tuỳ từng trường hợp mà có những phương pháp
hoá giải khác nhau. Lấy thí dụ như 1 nhà có hướng tinh Thất xích, trong vận 8
là suy khí. Gặp năm có niên tinh Nhị hắc chiếu tới, nên chủ phát sinh bệnh tật.
Với cách hoá giải thông thường thì chỉ cần treo chuông gió (windchime) để hoá
giải Nhị Hắc. Nhưng nếu để ý kỹ thì sẽ thấy hướng tinh 7 và niên tinh 2 gặp
nhau sẽ tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên, khắc chế kim khí nên chưa chắc treo
chuông gió đã có kết quả, mà người trong nhà vẫn bị bệnh tật về đường phổi và
máu huyết, nhất là khi có những nguyệt tinh 7, 9, 2, 3, 4 chiếu tới. Cho nên
trong trường hợp này lại nên treo 1 trái cầu thuỷ tinh (crystal) sẽ có tác dụng
hữu hiệu hơn là treo chuông gió.
Ngoài ra, nếu nhà này có nhiều cửa thì có
thể đóng cửa này, đi cửa khác thì cũng đã hoá giải được sao Nhị Hắc mà không
cần phải làm gì cả. Đó là chưa kể còn phải coi xem Vận tinh và Sơn tinh tại nơi
đó là sao gì, ngũ hành của chúng sinh, khắc với Hướng tinh và niên tinh ra sao?
Rồi ngũ hành của địa bàn nơi đó là gì? Có hỗ trợ hoặc chế hoá bớt Hoả khí của
Hướng tinh và niên tinh hay không?... Cho nên chỉ là 1 trường hợp mà đã có bao
nhiêu bối cảnh khác nhau, nên nếu chỉ đưa ra 1 phương cách hay công thức nhất
định thì sẽ xảy ra những trường hợp có người làm thì thấy hiệu quả nhiều hoặc
ít, có người không thấy gì hết, hay ngược lại còn bị tai hoạ thêm. Có người
không cần làm cũng làm cho tốn công, tốn của... Cho nên cách tốt nhất vẫn là am
hiểu rành rẽ lý thuyết rồi tuỳ nghi vận dụng vào từng trường hợp cá biệt mà
thôi.
Thần Sát
Ngoài việc xét các niên, nguyệt, nhật,
thời phi tinh theo năm tháng ngày giờ đến các cung. Ta còn cần biết đến các
loại Thần Sát (cát, hung) để biết đường né tránh hay vận dụng.
Có rất nhiều loại thần sát. Chúng ta chỉ nghiên cừu một số loại thần sát chính mà thôi.
Có rất nhiều loại thần sát. Chúng ta chỉ nghiên cừu một số loại thần sát chính mà thôi.
1-/ Ngũ Hoàng đại sát:
Ngũ là Mậu Kỷ thổ, là Hoàng cực, là tôn
nghiêm nhất,, khí thế mạnh nhất, một khi trở thành sát ắt có tai họa nặng nhất,
bất kể nó là khắc hay xung Ngũ Hoàng đại sát là sát khí dữ nhất trong các loại
sát bàn, còn gọi là Chính quan sát, Mậu kỷ sát, Đô thiên sát. Trong nguyên đán
bàn (địa bàn), Ngũ hoàng đóng ở trung cung, không đủ sát khí. Nếu bay thuận 8
cung, thay thế sao ở giữa vào đóng ở đó thì Ngũ hoàng ắt sẽ đóng ở vị trí cung
đối với cung của sao bay vào trung cung, hình thành hai khí đối lập đồng cung,
tương xung, tương khắc, hỗn hợp mà thành sát. Nhất bay nhập trung cung, Ngũ
thay nhất đến đóng ở Ly, Thủy hỏa xung khắc mà thành sát: Nhị bay nhập trung
cung, Ngũ thay Nhị đến đóng ở Cấn, Thổ khí âm dương xung khắc mà thành sát: …….
Nếu bay nghịch Ngũ hoàng thay thế sao
nhập trung cung bay đến cung nào đó sẽ hình thành khí phục ngâm. Phạm phục ngâm
là hung, cho nên Ngũ hoàng là hung sát của phục ngâm. Nhật nhập trung cung bay
nghịch. Ngũ thay Nhất đến đóng ở Khảm, Ngũ và Khảm là phục ngâm mà thành sát;
Nhị nhập trung cung bay nghịch, Ngũ thay Nhị đến đóng ở cung Khôn, Ngũ và Khôn
là phục ngâm mà thành sát;………
Tọa sơn lập hướng, ngoài vận 5 ra, các
vận khác nếu có Ngũ hoàng đáo sơn hoặc đáo hướng. Nếu vận tinh Ngũ hoàng là
hướng tinh gặp sao dương nhập trung cung bay thuận thì toàn bàn hướng tinh đều
là phục ngâm, dùng ắt hung; Nếu gặp sao Âm bay nghịch, toàn bàn hướng tinh đều
là phản ngâm. Hướng tinh bay nghịch ắt sẽ là vượng tinh đáo hướng, hơn nữa toàn
bàn hướng và vận bàn hợp thập, vì vậy tuy là phản ngâm nhưng lại càng thêm
vượng; Nếu là sơn tinh cũng suy như vậy…Do đó có thể biết, Ngũ hoàng nếu gặp
sao âm nhập trung cung bay nghịch khiến vượng tinh đáo hướng thì ngũ hoàng này
là hoàng cực đó ở chính vị, là tôn nghiêm nhất, có công dụng”gặp tù mà không
tù”( nhưng cần có thủy)
Nếu Ngũ hoàng trong vận 5, được cuộc
vượng sơn vượng hướng, đó cũng là cuộc đại cát, địa vận không thể nhập tù. Ngũ
hoàng nếu là khách tinh lưu niên (niên tinh), các nơi nó đến đều mang tai họa.
Nếu gặp Thái Tuế cùng đến ắt phát sinh tai nạn lớn. Dù không có Thái Tuế cũng
vẫn sinh tai họa.
Ngũ hoàng gặp tam thất (3-7), (7-3) là
Quan sát cộng thêm Xuyên tâm sát, không trở thành thổ phỉ cũng thành trộm cắp
hoặc tứ chi bị trọng thương.
Ngũ hoàng gặp Tam Nhị là Quan cộng thêm
Đấu ngưu sát, không phải trong nhà tranh dành, cãi vã thì người mẹ chết đột ngột.
Ngũ hoàng gặp Lục Thất là Quan sát gặp
Thương kiếm sát, không tranh dành đoạt lợi thì cũng bị kiện cáo đến tận kinh
đô.
Ngũ hoàng gặp Nhị Ngũ là ốm đau đến chết.
Ngũ hoàng gặp Thất Cửu là mắc bệnh đột
ngột.
Tóm lại, nơi Ngũ hoàng đến đều xảy ra tai
họa, tổn hại cả đinh lẫn tài.
2-/Thái Tuế:
Thái tuế là tượng của người đứng đầu, dẫn
đầu chúng thần, quản việc sắp đặt các phương vị, tổng thành sự nghiệp của tuế.
Lấy năm giáp tý của thượng nguyên, khởi hành ở Tý, một năm dịch chuyển một vị,
mười hai năm một vòng tuần hoàn.
Thái tuế là thần ở trong năm, tuế tinh là Mộc tinh, hai cái đó không phải là trở đi trở lại một việc,
Thái tuế là thần ở trong năm, tuế tinh là Mộc tinh, hai cái đó không phải là trở đi trở lại một việc,
Thái tuế đứng đầu bách thần, lão bách
tính gọi nó là “Thiên tử trong năm” cho nên quốc gia tuần thú bốn phương, ra
quân chiếm đất, tu tạo cung nguyệt, khai thác cương giới không thể xung phạm.
Lê dân bách tính tu tạo hưng khởi cũng cần tránh đi. Nhân vì thái tuế là tượng
Quân (vua) phương đó tuy có thể ngồi mà không thể hướng, nhưng trăm họ dân đen
tuyệt đối không thể chiếm lấy để dùng được.
Tuy nhiên theo Huyền Không phương của
thái tuế nếu có hướng tinh là vượng tinh thì càng vượng hơn như “gấm thêm hoa”.
Nó chỉ hung sát khi phương có tử khí mà thôi.
Thái tuế an theo năm, như năm Tý thì ở phương Bắc, năm Sửu ở phương Đông Bắc, Dần ở đông bắc. Mảo ở Đông, …
Thái tuế an theo năm, như năm Tý thì ở phương Bắc, năm Sửu ở phương Đông Bắc, Dần ở đông bắc. Mảo ở Đông, …
Sao Thái-tuế đóng nơi nào thì đều làm
tăng dương khí ở nơi đó lên cực mạnh. Ðiều này tạo ra các ảnh hưỡng sau đây:
Vì là nơi dương khí cực mạnh nên cung này
chỉ nên ở phương tọa chứ không nên ở phương hướng.
Trong phạm vi khí trường đang mạnh thì
các hoạt động mạnh như động thổ (đào đất), làm đường, máy móc vận chuyễn mạnh,
... làm cho dòng khí lưu
chuyễn mạnh thêm. Với Huyền Không thì khi Thái-tuế ở nơi có hướng tinh sinh, vượng càng động thì càng vượng thêm trừ phi khí quá mạnh tạo ra ảnh
hưỡng xấu.
chuyễn mạnh thêm. Với Huyền Không thì khi Thái-tuế ở nơi có hướng tinh sinh, vượng càng động thì càng vượng thêm trừ phi khí quá mạnh tạo ra ảnh
hưỡng xấu.
Niên canh xung Thái-tuế: Là Thái-tuế xung
khắc với năm sinh của chủ nhà. Thí dụ: người sinh năm Dần thì niên canh
Thái-tuế của người đó là Dần. Dần lại tương xung với Thân nên gặp năm Thân, tức
là năm “niên canh xung Thái-tuế” thì người này phải tránh hành động hoặc ngủ
tại 2 cung Dần, Thân để tránh khỏi bị trắc trở.
Không nên mở cửa theo hướng của năm sinh
để tránh không xung phạm Thái-tuế.
Thí dụ: Người tuổi Hợi không mở cửa ở cung Hợi.
Thái-tuế ở nơi nào thì nơi xấu lại xấu
hơn, nơi tốt lại tốt hơn. Như nhà là vượng sơn, vượng hướng thì khi Thái tuế
đến phương vượng thì vượng càng thêm vượng.
Có 2 loại Thái-tuế là Thái-tuế địa bàn và Thái-tuế phi tinh:
Có 2 loại Thái-tuế là Thái-tuế địa bàn và Thái-tuế phi tinh:
Thái-tuế địa bàn là Thái-tuế tính dựa
theo các sơn về địa chi trong địa bàn. Tùy theo địa chi của mổi năm mà suy ra
cung (phương vị) Thái-tuế phi tinh của năm đó như năm Tý thì Thái-tuế ở phương
vị của sơn Tý trên địa bàn. Như vậy, Thái-tuế địa bàn xoay theo vòng tròn xung
quanh Trung-cung.
Thái-tuế phi tinh chỉ có phái Phong Thủy
Huyền Không mới sử dụng. Cửu cung Phi tinh Lưu niên, mỗi năm có niên tinh bay
vào trung cung, các sao còn lại bay vào 8 cung còn lại theo vòng “lường thiên
xích”, cho nên phi tinh của từng năm là khác nhau. Thì dụ: Năm 2008, Thái Tuế
địa bàn là Tý đóng tại phương Khảm. Phi tinh nguyên thủy của Khảm là Nhất Bạch.
Vậy Nhất Bạch là Thái tuế Phi Tinh, năm
này niên tinh Nhất Bạch nhập trung cung cho nên Thái Tuế phi tinh đóng tại
trung cung. Năm 2009, Thái tuế địa bàn là Sửu đóng tại phương Cấn. Phi tinh
nguyên thuỷ tại Cấn là Bát Bạch. Vậy Bát Bạch là Thái Tuế Phi tinh, năm này
niên tinh Cửu Tử nhập trung cung, Bát Bạch đến hướng Đông Nam cho nên Thái Tuế
phi tinh đến đóng tại cung hướng Đông Nam. Như vậy, Thái-tuế phi tinh đổi vị
trí dựa theo bộ vị Lường-Thiên-Xích.
Niên nguyệt nhật thời phi tinh
Sau đây là cách tính Niên nguyệt nhật
thời phi tinh. Sau khi lấy được phi tinh thì cho nhập trung cung bay theo
"lường thiên xích" thuận để an các phi tinh còn lại vào các cung.
1-/ Niên tinh:
Lấy số năm dương lịch, cộng lại lấy tổng
số chia cho 9, lấy số dư cộng với 4, tiếp theo trừ cho 9 (nếu lớn hơn 9). số
biến sẽ là số nhập trung cung:
1
biến 5
2 biến 4
3 biến 3
4 biến 2
5 biến 1
6 biến 9
7 biến 8
8 biến 7
9 biến 6
2 biến 4
3 biến 3
4 biến 2
5 biến 1
6 biến 9
7 biến 8
8 biến 7
9 biến 6
Thí dụ: Tìm niên tinh nhập trung cung năm
2009:
Ta có: 2+9 = 11; 11/9 còn dư 2; 2+4 = 6;
6 biến 9 vậy niên tinh là 9 nhập trung cung bay thuận để an các sao còn lại.
2-/ Nguyệt tinh: Bảng nguyệt tinh theo năm
Ở đây dùng tháng dương lịch cho nên tháng
1 là của năm trước theo âm lịch. Thường một tháng bắt đầu vào khoảng ngày4 đến
ngày 9 của tháng dương lịch.
Tháng ( DL)
|
Năm
|
Năm
|
Năm
|
0
|
Tý Ngọ Mão Dậu
|
Thìn Tuất Sửu Mùi
|
Dần Thân Tị Hợi
|
1
|
9
|
6
|
3
|
2
|
8
|
5
|
2
|
3
|
7
|
4
|
1
|
4
|
6
|
3
|
9
|
5
|
5
|
2
|
8
|
6
|
4
|
1
|
7
|
7
|
3
|
9
|
6
|
8
|
2
|
8
|
5
|
9
|
1
|
7
|
4
|
10
|
9
|
6
|
3
|
11
|
8
|
5
|
2
|
12
|
7
|
4
|
1
|
3-/ NHẬT TINH:
BẢNG TRỰC BẠCH THIÊN TINH LỤC THẬP HOA
GIÁP
CẢ NĂM 12 THÁNG
4-/ THỜI TINH:
Thần Sát (tiếp)
• TUẾ PHÁ (đại hao):
Tuế phá tức thời xung Thái tuế, năm Tý
tại Ngọ, thuận hành mười hai thời. Đất ấy không thể tu tạo, di cư đến, cưới vợ,
lấy chồng, đi xa,… Bời vì hướng vào Tuế phá chính là tọa của Thái tuế, thì
phương của kẻ địch ở vào vị trí Tuế phá.
Tuế phá còn gọi là Đại hao ấy là nhắc nhở
mọi người không nên tu tạo kho tàng, nạp tài vật tại phương đó.
Phương của tuế phá là phương nghịch với
Thái tuế. Như năm Tý tại Ngọ tức phương Nam, năm Sửu, Dần tại Tây Nam,…
• TAM SÁT gồm : KIẾP SÁT, TAI SÁT, TUẾ
SÁT
- Kiếp sát: Là âm khí của tuế. Chủ có sát
hại. Phương nó quản kị khởi tạo. Phạm vào chủ có việc trộm cướp làm tổn thương
sát hại. Kiếp sát năm Dần ngọ tuất tại Hợi, năm Hợi mão mùi tại Thân, năm Thân
tý thìn tại tị
- Tai sát: Là ngôi vị của ngũ hành âm
khí. Thường đóng trước Kiếp sát một thời. Chủ việc tai bệnh, tật ách. Phương nó
quản không thể tu tạo hướng đến. Phạm vào mắc phải bệnh hoạn.
- Tuế sát: Là sát của âm khí, đó là đặc
biệt độc. Thường đóng ở tứ quí, bảo rằng âm khí của của tứ quí được đi chơi
trên trời. Đất của tuế sát không thể đục khoét, tu tạo, di chuyển, phạm vào
thương tổn con cháu, lục súc
Kiếp sát, tai sát, tuế sát là Tam sát.
Tam hợp ngũ hành ở ngôi vị Tuyệt, Thai, Dưỡng. Tuyệt thai dưỡng này ở sau mộ
khố. Trường sinh ở trước. bảo rằng đúng là âm khí. Hoặc bảo rằng tam sát là
xung với tam hợp ngũ hành đương vượng vì vậy mới nói nên hướng vào mà không nên
ngồi vào. Như vậy, Thân tý thìn hợp thủy cục, thủy vượng ở phương bắc, nó xung
ở phương Nam, vì vậy tam sát ở phương Nam tị ngọ mùi , các trường hợp khác cũng
suy như vậy.
Phương vị của tam sát như
sau:
- Năm Thân Tí Thìn tại Tị Ngọ mùi phương Nam
- Năm Dần Ngọ Tuất tại Hợi Tý sửu phương Bắc
- Năm Hợi Mão Mùi tại Thân Dậu Tuất phương Tây
- Năm Tị Dậu Sửu tại Dần Mão Thìn phương đông
- Năm Thân Tí Thìn tại Tị Ngọ mùi phương Nam
- Năm Dần Ngọ Tuất tại Hợi Tý sửu phương Bắc
- Năm Hợi Mão Mùi tại Thân Dậu Tuất phương Tây
- Năm Tị Dậu Sửu tại Dần Mão Thìn phương đông
• ĐẠI TƯỚNG QUÂN: Chính là đại
tướng thủ hạ của Thái tuế. Nó uy vũ trung trực, tổng lĩnh việc đánh dẹp. Phàm
quốc gia lệnh cho tướng quân, công thành, chiến trận,…Tướng quân sẽ thi hành.
Tướng quân mà kích chỗ xung nó là đại cát. Nhưng khởi tạo thì không thể phạm.
Đại tướng quân là chức quan cai quản về
võ, tượng dũng sỹ hộ vệ, vì vậy đóng ở ngôi vị tứ chính (đông tây nam bắc) mà
theo sau tuế quân. Như năm Dần mão thìn tuế tại đông phương thì đóng ở chính
bắc; Tị ngọ mùi, Tuế tại Nam phương , thì đóng tại chính đông; Thân dậu tuất
tuế tại Tây phương thì đóng tại chính nam; Hợi tý sửu tuế tại phương bắc thì đóng
tại chính tây
• LỰC SĨ : Là ác thần của tuế, chủ
hình uy, nắm chết chóc. Chỗ phương nó ở không nên hướng đến, phạm vào khiến cho
người bị dịch bệnh. Lực sĩ là quân hộ vệ thiên tử. Phương thường đóng ở góc
trước tuế , không dám rời xa vua. Chỗ phương nó ở có thể ban chiếu cho các thần
ở phương ấy để chém người có tội. Tuế tại phương đông, lực sĩ tại góc đông nam;
Tuế tại phương nam, lực sĩ ở góc tây nam; Tuế ở phương tây, lực sĩ ỡ góc tây
bắc; Tuế tại phương bắc, lực sĩ ở góc đông bắc
Tổng hợp từ Hiệp Kỷ Biện
Phương Thư. HẾT!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét