HUYỆT NỘI TÁC DỤNG 29 PHÁP
(29 PHÉP):
CHỌN ĐẤT AN TÁNG - SỬA
CHỮA - TU TẠO CÁC THẾ ĐẤT
CÓ KHIẾM KHUYẾT CHO MỘ
PHẦN GIA TIÊN
THEO PHONG THỦY
1. Thôn pháp(Thôn là nuốt vào) huyệt tinh nhỏ bé thì không nên đào phá, lấy
luôn Thôn pháp mà làm: Đào khoét ở dưới chỗ định huyệt 1 cái hang nhỏ để đút
quan vào ngang, rồi lấy đất đắp lên ở
thành mộ, thì linh khí ngưng tụ ở trong, đường khí ở ngoài thấu hợp, vậy
không bị tổn hại tinh thể phụ huyệt, sẽ chóng liền mạch.
2. – Thổ pháp: ( Thổ là nhả
ra) long sơn cao, mạch cường cấp, thấu vào thì sợ nát quan cốt, sẽ sinh họa!
lìa ra thì sợ thoát mạch mà lãnh thoái! Vậy nên lấy thổ pháp mà đặt táng; đào 1
cái huyệt rỗng ở dưới chỗ thấu vào mạch, đắp như cái ụ để thoát cái sát khí;
sau đặt táng ở dưới cái ụ rỗng đó thì tốc phát phúc, không sinh tai họa ( huyệt
để ở ngoài cái ụ rỗng).
3. – Phù pháp: ( phù là nổi)
long mạch trọng hậu, đào huyệt sâu thì sợ khí đi qua ở trên, đào nông thì sợ
khí qua ở dưới ( nghĩa la không quán khí được), vậy dùng phù pháp mà táng; đào
sâu huyệt, ngăn làm 2, thành 1 huyệt rỗng ở dưới đáy; sau sẽ đặt quan cốt lên
cái huyệt rỗng đó rồi mới đắp đất lại thì sinh khí tự dưới xông lên khiến tốc
phát thiếu niên cấp đệ ( thi đỗ sớm) phúc lộc lâu dài.
4. – Trầm pháp: ( Trầm là
chìm) long mạch hùng vượng nên thâm tàng (chứa ở sâu) sợ khí không xung hòa thì
tảo tuế sinh họa, vậy lấy Trầm pháp mà làm: Đào cái kim tỉnh ( huyệt) sâu, rồi
đặt quan cốt xuống, xong lấy gạch hoặc đá đặp xếp thành cái huyệt rỗng ở trên
cái quan thì vượng khí lưu thông, sẽ phát phú quý mau chóng và thiếu niên không
bị hại.
5. - Ẩn pháp: ( ẩn là giấu
kín) long mạch dã là chính, mà trước huyệt dư khí còn đi dài, thì lấy ẩn pháp
mà làm: Lập huyệt ở chỗ long chỉ ( mạch đứng lại), không đắp mộ cao; sau đến
chỗ thụ đường khí ( gần giáp Minh đường) đắp xây 1 cái hư phần ( mộ rỗng) lập 1
cái bia ở chỗ phóng thủy thì phát lâu dài.
6. – Thông pháp: ( Thông là
suốt) tinh thần trọc đại ( gò đống thô tục) thì khí ung trệ, nên lấy thông pháp
mà làm: chừa vài thước ở trong giữa gò, đừng động đến mà làm dài ngang vào 1
cái hang nhỏ để thông khí, đặt táng ở bên cái lỗ hang ấy thì phát phúc mau
chóng, mà vẫn có tú khí.
7. – Chú pháp: ( chú là
rót) long mạch khoát đại, hướng về đằng trước thực (ăn) đường khí thì thoát
long, hướng về đằng sau tiếp long khí thì vô thủy, vậy nên lấy Chú pháp mà làm:
chính chỗ gần huyệt ( trước cái gò đống điểm huyệt ấy) khai một cái đường cục,
lấy gạch hoặc đá xây thành bờ ( hình tròn hoặc vuông) sâu hơn huyệt độ 1, 2
thước, sau sẽ theo phép mà phóng thủy. Lại lấy đá ngăn che đường cục, sau sẽ
khai ra cái lạch nước như hình Hà tu ( càng tôm) ở trước huyệt, xa thì nông gần
thì sâu, chảy vào cái mặt ngoài tiểu minh đường ở phương Sinh, Vượng; xẻ một
cái lỗ nhỏ thì nước rót vào Nội đường, huyệt hướng vào chỗ chú ấy, vậy sẽ lưu
thông và phát phúc lâu dài.
8. – Bồi pháp: ( Bồi là
đắp) thạch long vô thổ mà huyệt tình minh bạch, sa thủy tú dị, thì lấy đất tốt
mà đắp thành đống mộ rồi hạ táng theo Bồi pháp: lấy đất ở phương Sinh, Vượng mà
đắp thành cái đáy huyệt, dầy thì 1 thước, mỏng thì 5 tấc cũng được, hạ táng
xong rồi đắp thành ngôi mộ tròn thì phát phúc lâu dài.
9. – Tá pháp: ( Tá là mượn)
có lai long đẹp thì nên lấy, nếu đáo đầu thì vô huyệt, chỗ mạch chỉ là ruộng
bùn lầy hoặc la ngòi lạch, nếu đặt táng phóng ở trên thì sợ cao vót! Lập huyệt
ở dưới thì sợ ẩm thấp, vậy lấy Tá pháp mà làm: đưa liền vào long mạch mà chất
đá, đắp đất, mượn cái long khí để thu thủy pháp rồi đặt huyệt ở chỗ đắp đất ấy
thì năm mới táng ( sơ niên) sẽ được lợi mà phát phúc lâu dài.
10. Trở pháp: ( Trở là ngăn
cản) long huyệt đã kết thành rồi mà dư sơn đi mãi không thôi ( chưa đứng lại)
tựa hồ như thể cước trọng, thân khinh ( chân nặng, mình nhẹ). Dương Công bảo là
Thiên kiếp đấy! ( Trời cướp đó!), vậy kíp lấy Trở pháp mà làm: tới chỗ khứ
trọng ấy, bất luận tả hay hữu, chỉ ở chỗ sơn khứ mạnh hơn về 1 bên mà đào 1 cái
huyệt rộng độ 3, 4 thước, sâu độ 1, 2 thước; xong lấy đá phiến to xây đắp thật
bền vững thì long khí sẽ hoàn tụ mà không thể đi được nữa, thì phát phúc.
11. – Hàm pháp: ( Hàm là
ngậm) gặp long mạch thô ngạnh, không kết huyệt vì không có dư khí, mà tấc lòng
vẫn lưu luyến thì hãy dụng Hàm pháp mà làm: đặt huyệt 1 nửa vào trong mạch, nửa
ở ngoài; bên trong mạch thì không nên xây đắp, bên ngoài hãy xây đắp đá thì
phúc lộc đại phát.
12. – Giá pháp: ( Giá là
gác) có huyệt Thủy oa trên núi cao ( tức là hang hố đá) tứ thời có nước chảy rỉ
ra không dứt, thì hãy lấy Giá pháp mà làm: đẽo 1 phiến đá bằng phẳng như tấm
ván dầy, lớn, rồi gác lên miệng hang hố ấy, sau đặt cái quan ở trên tấm đá ấy,
rồi lấy đất đắp thành mộ ( chứ không nên chất đá ở trên mộ nữa) thì sau phát
phú quý.
13. – Tải pháp: ( Tải là
chở, gánh vác) có cái “ Đảo địa Mộc tinh khởi bào” (Mộc tinh nằm, có cái nấm
như mảng bọt nổi trên mặt nước) hoặc như hình “Thiên tài Mộc” có cái Oa nhỏ,
nông; những cái như thế đều không nên đào xẻ mà lấy Tải pháp mà làm ( không nên
đá động đến tấc đất) có Bào thì đặt quan trên Bào, có Oa thì đặt trong Oa; rồi
đắp đất thành mộ ( chứ không nên xây bàng gạch đá) sẽ phát lâu dài.
14. – Chế pháp: ( Chế là
trừ triệt) có cái Hỏa tinh bình địa, kết ở trên mặt Thổ tinh hình vuông thì nên
lấy Chế pháp mà làm: chiếu cái chỏm long sơn ở đằng sau đối thẳng với cái mũi
nhọn Hỏa tinh ở phía trước, mà đặt huyệt ở khoảng trung ương; không nên đào sâu
quá ( tới chỗ thổ khác màu sắc thì thôi) tức như đáy lò lửa, lấy gạch đá xếp
thành đống mộ, trước mộ khai ra cái hình Đại đâu khâm, tức như Minh đường thủy
hợp khâm, ví như huyệt sâu 5 tấc trở lên thì cái thủy rót vào cũng sâu 5 tấc
trở lên thôi; đó là lấy Thủy chế Hỏa thì phát phúc, vô hại.
15. – Tạc pháp: ( Tạc là
đào xẻ) có lai long chân chính, chứng tá minh bạch, thế mà hạ táng sau lại sinh
ra tai họa; khai huyệt ra xem thì có nước bùn: đấy là bởi long khí đại vượng
thì nên lấy Tạc pháp mà làm: theo phép mà suy nghiệm thì ở chỗ long mạch của
Thiếu tổ ( Thiếu tổ sơn ở gần) đổ gục xuống chỗ trũng, thấp quá; vậy nên khai
xẻ 2 bên tả hữu chỗ thấp trũng ấy cho rộng ra để thoát nước đi, do đó, huyệt sẽ
không có nước và cũng không sinh hung họa, thì phát phúc được lâu dài.
16. – Ký pháp: (Ký là gửi)
ở chỗ thạch long đứng lại, khai ra cái hố nhỏ mà không thấy có thổ thì nên dùng
Ký pháp: đặt quan vào trong hang rồi lấy đất ở phương Sinh, Vượng mà đắp vào
rồi làm 1 cái cửa huyệt ( nhưng hang sâu là giả huyệt, không nên dùng cách
này). Lại còn cái ụ đá có hang rỗng ở nơi bình địa thì dù sâu, rộng cũng nên
dùng, lấy Ký pháp để thừa khí thì sẽ phát phúc.
17. – Thực pháp: ( Thực là
thật) thấy lai long tú bạt mà đáo đầu thành cái Hư oa, thì nên lấy Thực pháp mà
làm: trong Oa, xén vào chỗ lai long ấy độ 1, 2 thước hoặc mấy tấc cũng được,
rồi đặt quan tiếp long mạch, sau đắp thành đống mộ thì phát phú, phát quý. Đại
để là Mộc tinh thì phần nhiều kết huyệt như vậy.
18. – Hư pháp: ( Hư là hư
không) có lai long tuấn cấp, đến bình dương thì tán mạn vô thu. Vậy huyệt nên
điểm ở chỗ thủy giao thì lấy Hư pháp mà làm: đào 1 cái huyệt sâu; trên đầu,
dưới chân, 2 bên đều làm 1 cái huyệt rỗng rồi đặt quan ở giữa, thì long mạch
chu lưu ngưng kết ở đấy, sẽ phát phúc không ngừng.
19. – Thiểm pháp: ( Thiểm
là lén lút, giấu diếm) có cái lai long trực ngạnh, bất kham lập huyệt ( nó ẩn
lén lút ở bên tả hoặc bên hữu) thấy thủy đảo bên tả thì huyệt cũng ở bên tả,
thủy đảo bên hữu thì huyệt cũng ở bên hữu, vậy lấy Thiểm pháp mà làm: đẩy sát
vào tinh thể mà đào 1 cái huyệt, bỏ trống rỗng. Vậy sau khi đặt huyệt ở chỗ
không có mạch nhập thủ thì sẽ xuất quan chức có uy quyền.
20. – Toàn pháp: (Toàn là
dùi, khoan xuống) có cái dương oa ở nơi đất bằng thì nên lấy Toàn pháp mà làm:
khoan dùi xuống giữa huyệt ở trong cái Oa rồi lấy đất lấp cho bình diện cái Oa
ấy cho đầy lên, đắp cái mộ nhỏ, khởi cao, và làm cho 2 bên tả hữu có tay long,
tay hổ ôm gần vào mộ thì sẽ phát đinh, tài thịnh vượng.
21. – Lậu pháp: ( Lậu là
nước thấm, rỉ) có 2 mạch hợp thành thạch đôn ( ụ đá), nếu đặt quan lên trên
đống đá thì nước ở đằng sau không có chỗ chảy ra, hãy lấy Lậu pháp mà làm: “ khai
1 cái lỗ nhỏ ở giữa đống đá để phóng thủy, sau lấp đá cho đầy, bằng phẳng; đặt
mộ trên đá thì có thể ngưng khí của 2 cái mạch lại, mà phát phúc vô cùng vậy.
22. – Tốc pháp: ( Tốc là
mau chóng) Kim tinh to lớn là ngoan kim, huyệt ở 1 bên mà không nên dụng phép
Đả khai là vì cớ gì? Bởi vì huyệt ở giữa thì khí vượng, huyệt ở bên rìa thì khí
ít! Vậy không nên khai phá, mà chỉ lất Tốc pháp mà làm: khai 1 cái kim tỉnh (
huyệt) nhỏ mà hạ táng rồi lấy thổ đắp lên thành mộ, chứ không nên xây gạch hoặc
chất đá lên. Năm đầu tiên mới táng thì không nên phóng thủy,khi nào được phát
thì mới cho thủy phóng đi để lấy tốc phát, nên phép gọi là Tốc pháp.
23. – Triết pháp: ( Triết
là chảy đi) có long mạch hùng hậu, phi bão thực vượng! hạ táng thì sợ về sau
sinh chứng bệnh ôn hỏa! Vậy nên lấy Triết pháp mà làm: “ sau khi táng 1 năm,
chọn ngày tốt lành để “ TRỪU XUẤT QUAN DĨ TIẾT KỲ KHÍ” ( nghĩa là: kéo cái quan
ra để cái khí tiết bớt đi), về sau lâu lâu lại chọn ngày tốt lành mà kéo quan
ra cho khí tiết thêm lần nữa thì phát phúc vĩnh viễn, không sinh họa ách!
24. – Phá pháp: ( Phá la
phá vỡ) tinh thổ thô ngoan, huyệt ở giữa, nên lấy Phá pháp mà làm: “ xem chứng
tá 4 bên chung quanh mà điểm huyệt, rồi khai phá ra cái Oa, thấy khác màu thổ
và sắc tươi thì thôi. Vì cớ là: cái tinh thần ( tức gò đống) ấy hàm xúc linh tú
ở trong, là cái chất khí trọng trọc tàng trữ, tức như thạch trung tàng ngọc,
thì phải phá vỡ thạch ra thì mới thấy ngọc, nên gọi là phá pháp.
25. – Thốt pháp: ( Thốt là
khuyết, lõm) có long mạch tú dị mà đến chỗ kết huyết thì bên tả hoặc bên hữu
lại lõm khuyết, bị phong xuy huyệt, thì nên lấy Thốt pháp mà làm: “ bất luận tả
hữu, đều khai 1 cái huyệt khác ở giữa chỗ định lập huyệt hạ táng, về mé bị lõm
khuyết để che và tránh gió”. Vậy sau đưa quan cốt ở cạnh cái quan gỗ không có
hài cốt ( tức 2 cái quan liền nhau); nông, sâu cũng như nhau. Do đó, không bị
gió thổi lạnh hài cốt và không bị kiến, mối đục khoét mộ nữa, thì con cháu các
ngành đều thịnh vượng.
26. – Ưng pháp: ( Ưng là
cản, giữ lại) long mạch hùng dũng, đáo đầu ủng thũng, thô xuẩn hoặc như đông
qua, mộc biều ( quả dưa, quả bầu), như phi long, thiếu thiên long, cường long…
hay kết huyệt như thế, hoặc có thạch huyệt nữa, thì làm như cái Thủy tinh đôi (
gò đống như hình thể thủy tinh), đặt quan thừa khí ở chỗ lưng thắt lại như eo
mạch,thì phát phúc lâu bền.
27. – Huyền phát: ( Huyền
là treo) có lai long tủng bạt, đáo đầu ta nga đẩu tả ( cao chênh vênh vọt nước
xuống), trực táng, tức táng cũng đều bị thương nhân khẩu, thì nên lấy Huyền
pháp mà làm: “ lấy đằng chân quan mà thừa thụ khí”; mặt ngoài thì đắp đất lên
mà khai ra làm minh đường, thì không hung họa mà phát phúc lâu dài.
28. – Đấu pháp: ( Đấu là
xung đấu) Mộc tinh đảo địa ( hình dài như cây gỗ đổ, nằm xuống) thì bất luận ở
miền núi cao hay đất bằng nếu không thấy đột, thò bướu ra như mấu đốt cây, hoặc
không chuyển động như khúc cong… đó la trực mộc, có sát khí! Theo phép thì “ Dĩ
yêu thụ khí” tức là lấy chỗ ngang lưng mà thừa khí, gọi là nhập yêu, hay gọi là
“ Xuyên trâm đấu phủ” ( đặt huyệt ngang như cái lưỡi rìu đâm ngang cán) bên tả
hữu khai rộng ra, thấp xuống, mộ đắp cao như cái bia đứng, trước mặt giáp gần
tới đường, thì phát phúc lâu dài.
29. – Tức pháp: ( Tức là
nghỉ, đứng lại 1 chút) long mạch tuấn cấp, sát khí thái trọng; là đằng sau
huyệt, mạch ở trên đổ xuống cấp quá thì bị sát khí xung vào đầu não mạnh quá.
Vậy phải tránh ra; đào cái huyệt rộng ở đằng sau, rồi đặt quan ở trước cái
huyệt bỏ trống đó, khiến cấp khí chậm lại 1 chút, ngõ hầu không bị cái họa hoạn
ở chỗ bạo khí xung quan, thì phát phúc rất mau và càng bền lâu.
TRÍCH: BẢO NGỌC THƯ – VIỆT HẢI.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét