Nghi Lễ Cúng Khấn
THÍCH VIÊN THÀNH
NỘI DUNG NGHI LỄ
Đức Phật Thích Ca đã giáng sanh tại thành Ca Tỳ La Vệ, xứ
trung Ấn Độ (trước Tây lịch 624 năm). Thời bấy giờ đã có đến 94 thứ Đạo, thế mà
Đức Phật còn ra đời làm gì nữa? Chẳng qua các Đạo ấy tuy nhiều mà chưa được
toàn: CHÂN, THIỆN, MỸ. Đức Phật mới ứng thân thị hiện để hướng dẫn cho chúng
sinh chuyển Mê thành Ngộ, thấy Tính tỏ Tâm, vượt Sống khỏi Chết, lìa Khổ được
Vui, hầu chứng Đạo quả VÔ THƯỢNG CHÍNH ĐẲNG CHÍNH GIÁC.
Đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Tây Lịch năm 67,
Nghi Lễ của Phật Giáo, làm pháp môn hoằng hóa, hướng dẫn những kẻ sơ cơ nhập
Đạo một cách rất đắc lực.
Thời gian Đạo Phật Bắt Tông, từ Trung Hoa (thuộc thế kỷ thứ
I) và Nam Tông, Miên, Thái, Lào truyền sang, thịnh hành ở Việt Nam, rộng
rãi trên Thế Giới đến ngày nay. Phần đông dân số nước ta là tín đồ Phật
Giáo. Đạo Phật là Đạo hiếu, hạnh Phật là hạnh hiếu, tâm Phật là tâm
hiếu.
Người theo Đạo Phật chính nhờ đạo lý duyên phúc nhiều
đời tổ tiên hoặc do tình cảm với thân quyến, hay do ý thức trải nghiệm khổ
đau của trần thế, Đạo Phật đã đi sâu vào quần chúng, để chia xẻ nỗi buồn vui
trong lúc họ có ma chay, cưới hỏi. Nhờ vậy mà đa số dân tộc Việt Nam đã phát
tâm quy y ngưỡng mộ Đạo Phật.
Nghi lễ là một pháp môn hoằng Đạo không thể thiếu được.
Do pháp môn này, nhiên hậu chúng ta lần lượt đưa người vào chỗ hiểu đúng giá
trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Đạo Phật. Muốn đáp ứng nhu cầu nói trên,
cần phải có một tài liệu Nghi Lễ để học tập. Nói riêng VN về Nghi Lễ Phật
Giáo Bắt Tông quá phong phú đa dạng.
Ý NGHĨA NGHI LỄ :
Khi nói đến Nghi Lễ chúng ta cần phải hiểu qua nhiều ý
nghĩa:
Nghi: Nghi thức, lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai
nghi.v.v..
Lễ: Lễ giáo, lễ nhạc, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung
kính.v.v...
Nghi Lễ là chỉ chung cho nghi thức tụng niệm hành lễ, sinh
hoạt, trong phạm vi tín ngưỡng thờ phụng. Bất cứ một tôn giáo hay một tập
thể nào, đều phải có những hình thức Nghi Lễ. Mặc dầu trên thể thức âm điệu có
phần sai khác, nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện, nhờ có sinh hoạt lễ
nghi mà đưa người vào Đạo Phật một cách dễ dàng.
Ví dụ: Cầu an, hôn lễ, nhà mới, bệnh hoạn, tai nạn...
bắt đầu cho sự xây dựng gia đình, thờ tự chư Phật, Bồ Tát, ông bà
tổ tiên, cầu siêu bạt độ kẻ lâm chung, người chiến sĩ, đồng bào hồn
thiêng, vị quốc vong thân, oan hồn uổng tử không nơi nương tựa v.v...Đó
là những phương tiện thực tế để điều hòa tâm lý, gieo rắc tình cảm, an ủi tinh
thần cho người còn cũng như kẻ mất đem lại nhiều lợi lạc.
Vậy hành giả cần phải học tập và hiểu rõ ý nghĩa về Nghi Lễ.
Mỗi khi hành lễ, muốn được điều hòa âm thanh nhịp nhàng trang nghiêm và linh
cảm, cần phải có những pháp khí để làm phương tiện hổ tương trong những khóa
lễ như sau:
TIẾT THỨ LÀM NGHI: - Chuông trống Bát Nhã. - Cử nhạc khai
đàn. - Chủ lễ đăng điện - Cử nhạc tham lễ. - Chủ lễ niệm hương. - Dâng hương -
tác lễ.
Muốn trang nghiêm, trọng thể, ban nghi lễ thành tâm
bưng khay trầm hương hoa, khánh, linh, đến trước Chư Tôn Đức hành lễ,
đặc trên bàn. Một lạy quỳ thưa thỉnh: “Kính bạch Chư Tôn Đức đã đến
giờ hành lễ, chúng con cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức quan lâm đạo tràng
hành lễ. Ngưỡng mong Chư Tôn từ bi nạp thọ”. Chư Tôn đồng thanh niệm:
“Nam Mô A Di Đà Phật”, tức đã liễu tri nhận cho rồi. Ban nghi lễ, thưa:
“Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức đã hoan hỷ hứa khả cho rồi, chúng con
xin chí thành đảnh lễ cúng dường ba lạy”, đứng dậy đánh khánh, bưng
khay trầm, đèn, hoa dẫn đường đi trước, tiến về đạo tràng hành lễ,
nếu có lọng, bê, tích, trượng đi hai bên càng trang nghiêm, đến nơi
đứng, để pháp khí, đồ lễ hai bên, Chư Tôn Đức hành lễ.
Trong lúc bắt đầu rước, đánh chuông trống bát nhã
thỉnh đi...Tổ chức các lễ lộc trang trọng đều như thế. Nếu có nhạc
sẽ thêm vào.
Bài Kệ Chuông Trống Bát Nhã: (song hành là có chuông) Bát
nhã hội (3 lần).
Thỉnh Phật thượng đường (1 lần). Đại chúng đồng văn (1 lần),
Bát nhã âm (1 lần). Phổ nguyện pháp giới (1 lần), Đẳng hữu tình (1 lần), Nhập
Bát Nhã (1 lần), Ba La Mật Môn (5, 10, 20 lần một hồi, tùy theo ngắn hay
dài ba hồi).(Nghĩa là : Thỉnh chư Tăng, Phật tử vào chánh điện, hay nơi
hành lễ. Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý trang nghiêm).
LỜI KHẤN NGUYỆN CÚNG LỄ
Xưa nay lưu truyền nhiều lời khấn nguyện rất linh nghiệm.
Như Thái Tử Tất Đạt Đa ngồi dưới gốc cây Bồ Đề (Tất bát la ở Ấn
Độ) nguyện nếu ta không thành Đạo, thì dầu thịt nát, xương tan, cũng
quyết không đứng dậy khỏi chổ này. Với ý chí hùng dũng cương quyết
ấy, sau 49 ngày đêm tư duy, Ngài thấu rõ chân tướng của vũ trụ nhân
sanh và chứng Đạo Bồ Đề.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi bài khấn Vua Lý Thái Tổ.
Lời lẽ rất linh thiêng cảm động đến cả quỷ thần, chép rằng: Năm Nhâm Tý 1012,
Vua tự cầm quân đánh trận ở Diển Châu, khi đến đất Tĩnh Gia, Thanh Hoá, gặp lúc
trời đất tối tăm sấm gió dữ dội, Vua đốt hương thành tâm nguyện rằng:
Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp
sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người
Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược dân chúng, tội ác
chất chồng, không thể dung tha. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ
trung hiếu hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận, tỏ ý trách móc chỉ bảo.
Tôi dẫu gặp tổn hại không giám oán trách. Như quân sĩ có ai sai phạm, thì nên
dung thứ, xin trời cao soi xét chứng giám.
Lạ thay, lời nguyện vừa dứt thì trời quang mây tạnh, ba
quân vô cùng mừng rỡ. Ấy là điều ghi trong chánh sử, còn trong dân gian thì
lưu truyền biết bao câu chuyện linh hiển.
Người VN rất coi trọng lễ nghĩa. Người xưa có câu: “Tiếng
chào cao hơn cổ”. Thường nhật có công việc gì bày biện cổ bàn thịnh soạn, mời
mọc khách khứa đến nhà. Ông chủ không có lời mời trước, khách nào dám cầm
đũa. Đến diệp Tết lễ, nếu như mâm cao cổ đầy, dâng lên cầu cúng, không có lời
khấn nguyện, thì ai biết chứng cho. Vậy dâng lễ cần có lời khấn nguyện để
giải tỏ lòng thành.
Đây là một tập tục của người VN. Nó phản ảnh một khác vọng
sống, chân chánh, mong được sống ấm no hạnh phúc. Vậy điều cốt yếu lời khấn
nguyện thế nào? là bày tỏ tâm thành cầu xin đấng linh thiêng, oai lực Chư Phật
Bồ Tát…Chủ yếu là thành tâm, chứ chẳng phải lời văn hoa mỹ, cầu kỳ, cũng chẳng
phải cầu cho nhiều là được. Nhất niệm thông tam giới. Nhất niệm chí
thành thiêng linh cảm cách...
Ngày nay có người dâng hương truyền thống, nhưng lại canh
tân chỉ cần thắp hương, đến trước bàn thờ, chẳng mật niệm, chấp tay, khấn vái,
đó là tuỳ tâm. Nhưng cần nghĩ, chỉ nên bỏ phần rườm rà, mê tín dị đoan, giữ
lại cái hay đạo lý, triết lý cổ nhân, vẽ đẹp văn hoá, mang tính cách giáo dục
thuần phong mỹ tục đạo đức của cha ông thầy tổ, song không ít người phải
lúng túng, chẳng biết khấn nguyện ước muốn ra sao? để bày tỏ với Tổ Tiên,
Phật Thánh…Vì thế mới có lời khấn nguyện này, hầu giúp phần nào cho người
thực thi tín ngưỡng dễ đọc, dễ biết, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ lưu truyền để phát huy
nét hay, đẹp, đạo lý của dân tộc Việt.
Điều cần lưu ý: Mặc dù tiết, lễ đơn sơ, nhưng cũng phải có
những qui ước như:
-Cúng thần nội (Tổ tiên): thì không nên nhập quán xưng quốc hiệu, địa chỉ.
-Cúng thần nội (Tổ tiên): thì không nên nhập quán xưng quốc hiệu, địa chỉ.
-Cúng thần ngoại (Thổ công,Táo quân,Thần thánh): thì phải
nhập quán xưng quốc hiệu. địa chỉ...
Phong tục thờ cúng, để được tiện dụng, xin chia nhiều loại:
Lễ tại gia, tại chùa, đình đền, miếu phủ, tượng đài, nghĩa trang, nhà
quàn, hội trường, cộng đồng tổ chức v.v... không phân biệt sang hèn, trẻ
già, nam nữ, đều có thể sử
dụng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét