Hàn Long mạch (hàn long trị mạch)
Xin giới thiệu 1 phương pháp Hàn long mạch
còn lưu truyền trong dân gian.
Hàn Long mạch trong sách cổ có viết thành
1 khoa và lấy tên là Điền Hoàn Địa mạch, có nghĩa là nối lại những long mạch đã
bị đứt hoặc vô tình hoặc cố ý gây nên.
Long mạch là gì?
Người xưa trong quá trình quan sát thế
giới tự nhiên đã nhận thấy giữa vũ trụ và con người có mối quan hệ tương tác
khá chặt chẽ. Khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng sông ngòi, mạch nước, núi
non, gò đồi…là biểu hiện của các biến đổi địa chất tích luỹ hàng triệu năm
trong vỏ trái đất. Những quá trình vật lý hoá học đó diễn ra trong lòng đất
chạy thành hệ mạch, cũng gần giống như hệ thống mạch máu trong cơ thể con
người.
Mạch của đất gọi là long mạch, việc tìm đất gọi là tầm long, công cụ định thế và hướng đất là cái tróc long. Theo phép tầm long trong phong thuỷ truyền thống, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt. Huyệt thường là các thế đất hội tụ các yếu tố đắc ý của các qui tắc phong thuỷ như : có một quả đồi án làm che trước mặt (tiền án), có một ngọn núi làm chỗ dựa về sau (hậu chẩm), bên trái có tay long, bên phải có tay hổ (gọi là tả thanh long, hữu bạch hổ). Tay long và tay hổ có thể là đồi núi, bờ ruộng.. có dạng cánh cung liên hoàn với nhau. Tay long (bên trái, phương đông) lồng ra ngoài tay hổ (bên phải, phương tây) là tuyệt cách. Huyệt còn phải có chỗ trũng cho nước tụ lại ở trước (minh đường).
Mạch của đất gọi là long mạch, việc tìm đất gọi là tầm long, công cụ định thế và hướng đất là cái tróc long. Theo phép tầm long trong phong thuỷ truyền thống, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt. Huyệt thường là các thế đất hội tụ các yếu tố đắc ý của các qui tắc phong thuỷ như : có một quả đồi án làm che trước mặt (tiền án), có một ngọn núi làm chỗ dựa về sau (hậu chẩm), bên trái có tay long, bên phải có tay hổ (gọi là tả thanh long, hữu bạch hổ). Tay long và tay hổ có thể là đồi núi, bờ ruộng.. có dạng cánh cung liên hoàn với nhau. Tay long (bên trái, phương đông) lồng ra ngoài tay hổ (bên phải, phương tây) là tuyệt cách. Huyệt còn phải có chỗ trũng cho nước tụ lại ở trước (minh đường).
Long mạch và huyệt có thể ở qui mô lớn
hoặc nhỏ, có thể cả một vùng lãnh thổ với những dãy núi nhiều ngọn, những dòng
sông suối… có khởi đầu, có kết thúc. Chẳng hạn ở Việt Nam, hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình làm nên địa mạch vùng đồng bằng Bắc Bộ, lưu vực sông Đồng Nai
và Vàm Cỏ làm nên vùng Sài Gòn, Biên Hoà và phụ cận là nơi dân cư hội tụ, thị
tứ sầm uất.
Trước khi xây nhà hoặc táng mộ người ta
thường kiếm 1 thầy địa lý giỏi đến để tìm huyệt tróc long.
Chuẩn bị hàn long mạch gồm những thức nào?
....
Chuẩn bị phù thức:
Có 5 đạo bùa dùng để trấn giữ long mạch
sau khi đã hàn lại. Gồm:
Phương đông có viết chữ: Ngọc Hoàng
sắc hạ Đông phương già la thanh tướng thái ất trường sinh phụng trấn.
Phương nam có viết chữ: Ngọc Hoàng
sắc hạ nam Phương xích tướng Bá Thiên La phụng trấn.
Phương tây có viết chữ: Ngọc Hoàng sắc hạ
tây phương bạch tướng Bạch Xà Thiên Sắc phụng trấn.
Bắc phương có viết chữ: Ngọc Hoàng sắc hạ
bắc phương hắc tướng Già La Lý Nghĩa Thái phụng trấn.
Trung Ương có viết chữ: Ngọc Hòa Sắc hạ
trung ương hoàng tướng Già la Thiên La Khanh Kim Thân phụng trấn.
Cách
luyện bùa:
Bùa viết trên giấy vàng , viết bằng mực
đen. Bàn vẽ bùa quay về hướng đông. Khi mặt trời vừa nhó lên thì viết, mỗi đạo
bùa thì tay viết miệnh niệm chú:
Thiên
địa tự nhiên。 uế khí tiêu tán。 đỗng trung huyền hư。 hoảng lãng thái nguyên。bát phương uy thần。 sử ngô tự nhiên。 linh bảo phù mệnh。 phổ cáo cửu thiên。can la đát la。 đỗng cương thái huyền。 trảm yêu phược tà。 sát quỷ vạn thiên。
trung san thần chú。 nguyên thủy ngọc văn。 trì tụng nhất biến。 khước quỷ diên niên。án hành ngũ nhạc。 bát hải tri văn。 ma vương thúc thủ。 đãi vệ ngã hiên。hung uế tiêu tán。 đạo khí trường tồn。 cấp cấp như luật lệnh。
trung san thần chú。 nguyên thủy ngọc văn。 trì tụng nhất biến。 khước quỷ diên niên。án hành ngũ nhạc。 bát hải tri văn。 ma vương thúc thủ。 đãi vệ ngã hiên。hung uế tiêu tán。 đạo khí trường tồn。 cấp cấp như luật lệnh。
Lưu ý: Phải tập luyện thật thành thục
trước khi vẽ bùa, khi vẽ thì lấy 1 hơi dài, chỉ đọc câu thần chú qua kẽ chân
răng.
Vẽ xong thì sắp bùa lên bàn thư chữ "án" bằng
Phạn tự, chữ " tốc nhập" bằng hán tự, thư tứ tung ngũ
hoành.
Thư xong đọc thần chú Kim
quang:
thiên địa huyền tông。 vạn khí bổn căn。 nghiễm tu vạn kiếp。 chứng ngô thần thông。tam giới nội ngoại。 duy đạo độc tôn。 đính hữu kim quang。 phúc ánh ngô thân。thị chi bất kiến。 thính chi bất văn。 bao la thiên địa。 dưỡng dục quần sanh。
thụ trì vạn biến。 thân hữu quang minh。 tam giới thị vệ。 ngũ đế ti nghênh。
vạn thần triêu lễ。 dịch sử lôi đình。 quỷ yêu tang đảm。 tinh quái vong hình。
nội hữu phích lịch。 lôi thanh ẩn minh。 đỗng tuệ giao triệt。 ngũ khí đằng đằng。
kim quang tốc hiện。 phúc hộ chân nhân。 cấp cấp như ngọc hoàng quang giáng luật lệnh。
thụ trì vạn biến。 thân hữu quang minh。 tam giới thị vệ。 ngũ đế ti nghênh。
vạn thần triêu lễ。 dịch sử lôi đình。 quỷ yêu tang đảm。 tinh quái vong hình。
nội hữu phích lịch。 lôi thanh ẩn minh。 đỗng tuệ giao triệt。 ngũ khí đằng đằng。
kim quang tốc hiện。 phúc hộ chân nhân。 cấp cấp như ngọc hoàng quang giáng luật lệnh。
Sau khi chuẩn bị bùa thì phải lấy Đất Ngũ
Linh Thổ.
Đất Ngũ linh thì lại có thể thay đổi tùy
theo xu thế phát triển của chủ nhà, nhưng nhất thiết phải là 5 thứ đất.
Nếu chủ nhà đang làm quan thì gồm 5 loại
sau: Đất cơ quan, đất dọc đường lên, đất chùa, đất đền quan lớn, đất chỗ giao
nhau của đại lộ.
Nếu chủ nhà là người Kinh doanh thì: Đất
chợ, đất ngã ba sông, đất chùa, đất đền, đất ngã ba đường.
Nếu chũ nhà là ngừoi làm công tác có học
vị thì: Đất nhà thầy, đất chùa, đất đền, đất cơ quan, đất dốc lên.
Nếu chủ nhà làm nông nghiệp: Đất chùa, đất
đền, đất ruộng, đất gò, đất chợ.
Sau khi chuẩn bị đất Ngũ Linh thì chuẩn bị
chỉ ngũ sắc: xanh - đỏ - trắng - tím - vàng
Chuẩn
bị 13 cây kim khâu.
Chuẩn bị nước Tam Giang Thủy.
Chuẩn bị Thất Bảo (có bán sẵn ở các tiệm phong thủy)
Chuẩn bị 1 miếng vàng thiệt.
Chuẩn bị nước ngũ vị gồm: Đinh hương, quế, hồi, ngũ vị tử, long não
chuẩn bị gói thuốc xông và muối hột.
và cuối cùng chúng ta cần chuẩn bị những thức cần thiết nhất là: Chu Sa - Thần sa - Hùng hoàng - A Giao - A ngùy.
Chuẩn bị nước Tam Giang Thủy.
Chuẩn bị Thất Bảo (có bán sẵn ở các tiệm phong thủy)
Chuẩn bị 1 miếng vàng thiệt.
Chuẩn bị nước ngũ vị gồm: Đinh hương, quế, hồi, ngũ vị tử, long não
chuẩn bị gói thuốc xông và muối hột.
và cuối cùng chúng ta cần chuẩn bị những thức cần thiết nhất là: Chu Sa - Thần sa - Hùng hoàng - A Giao - A ngùy.
Lưu ý: A Ngùy có 2 loại, loại bán trong
tiệm thuốc bắc là loại nhựa cây A Ngùy ra. Loại A Ngùy của thầy pháp thì là
loại chảy từ mỡ động vật và tinh chất long mạch trong các mạch đất trên núi.
Câu chuyện một căn nhà bị yểm
bùa.
Tháng Giêng năm Kỷ Sửu vừa qua tôi có dịp
ra Bắc lễ, lúc nhàn rỗi trà dư tửu hậu tôi mới ngồi kể về các phép yểm bùa của
thợ mộc theo phái Lỗ Ban. Đang nói đến cách dùng chữ trong yểm bùa thì có một
chị nói rằng: Cách đây gần 10 năm chồng chị có mua 1 căn nhà cổ về dựng trên
nền đất của gia đình để giữ đất, không hiểu sao từ khi làm xong căn nhà đó thì
vợ chồng làm ăn sa sút, khuynh gia bại sản đến mức khánh kiết và hiện nay đang
lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn.
Chủ trước của ngôi nhà đó cũng là người
gặp đại hạn, vợ chết, lấy vợ thứ thì được ít ngày thì cô ta cũng bỏ nhà ra đi.
Con cái bệnh tật. căn nhà cổ bán rẻ như cho. Tính vào thời điểm lúc đó chỉ bán
được hơn 3 triệu đồng.
Người chủ sau này vốn là anh bộ đội, thấy
rẻ, thấy đẹp thì mua chứ không có nhiều kiến thức về nhà cổ.
Tại sao nhà lại bị yểm? Câu trả lời thì
hiện nay cũng giống như truyền thuyết và trở thành nhiều dị bản khác nhau. Ở
đây tôi chỉ giới thiệu hai câu trả lời là hai cách hiểu thông dụng nhất.
Chung nhất vẫn là do cánh thợ mộc làm ra.
Từ xưa đã có luật mật truyền trong các Làng Nghề mộc là khi đi dựng 9 căn nhà
thì đến căn thứ 10 thì phải cúng cho Tổ nghề. Cho dù nhà đó là nhà của chính bố
đẻ mình. Những cánh thợ mộc có đức thì người ta làm một căn nhà mái rạ ven
sông, rồi chọn ngày đốt. Làm được điều này thì chẳng có ân oán gì vì chẳng gây
họa cho ai, nhưng lại tốn kém. Còn cánh thợ mộc khác phần do kinh tế eo hẹp,
phần do lời thề không phản bội tổ nghệ nên họ cứ thế mà làm. Biết rằng làm điều
ấy là không tốt nhưng nếu không yểm thì rất là nguy cơ. Cũng có khi chủ nhà đối
đãi chẳng ra gì với họ cho nên họ mới yểm cho để báo thù.
Truyền thuyết thứ 2 là, chủ nhà vốn là
người độc ác hoặc có nợ máu với dân, thường làm những việc trái với luân thường
đạo lý. Tổ sư nghề mộc hiển linh và báo mộng cho anh thợ cả để phải yểm ngôi
nhà ấy.
Cách yểm nhà thì cũng có nhiều cách. Thông
thường có ba cách chính.
Thứ nhất, thường dùng nhất là dùng mảnh chàng hoặc mảnh đục đóng găm vào 2 đầu long cốt (đòn nóc), trên 2 cái xà ngang thì viết đôi dòng chữ:
Thứ nhất, thường dùng nhất là dùng mảnh chàng hoặc mảnh đục đóng găm vào 2 đầu long cốt (đòn nóc), trên 2 cái xà ngang thì viết đôi dòng chữ:
Dòng thứ nhất viết dưới xà ngang bên trái:
CÀN
NGUYÊN HANH LỢI TRINH
Nguyên những chữ này nằm trong Kinh Dịch thuộc Quẻ Bát Thuần Càn là tượng trưng cho Trời thiêng liêng , đức lớn nên người Xưa muốn mượn những chữ ấy mà trừ bỏ những điều không tốt . Ngoài ra tại một số vùng quê khác ở đồng bằng bắc bộ khi xây dựng các căn nhà theo lối cổ cổ người ta vẫn đưa bốn chữ này lên . Theo khảo cứu thì năm câu này cũng có trong câu Thần Chú yên Thổ Địa Thần của Đạo Giáo.
Người thợ cả khéo léo chạm ẩn một chữ “Khứ” nghĩa là đi. Đồng nghĩa với việc hung họa sẽ ập xuống nhà này. Đây là một cách yểm thừa tự. Hoặc trong 5 chữ đó người thợ chạm cố ý bớt nét đi – đây là cách yểm chiết tự. Hoặc dùng máu chó đẻ, chọn giờ Thìn ngày Thìn thì đồ lên các nét vẽ.
Dòng thứ hai viết dưới xà ngang bên phải:
KHƯƠNG
THÁI CÔNG TẠI THỬ
Truyền thuyết kể lại, Khương Thái Công (không phải là Khương Tử Nha) có nghề đồ tể, Ông chuyên đi thăm heo, ông ta tay cầm roi chỉ vào con heo nhà nào, mà nhà đó không bán cho lão ta thì heo đó sẽ chết. Vì thế khi khắc dòng chữ này thợ chạm thế nào cũng phải đi ăn tiết canh rồi lén lấy chút huyết heo về đồ lên chữ. Nhà nào phải những dòng chữ này thì tuyệt tự, hậu duệ tan nát. Con cái đẻ ra thì ngu đần, thất học hoặc bỏ học, sự nghiệp tan rã. Chủ nhà làm ăn ngày một đi xuống.
Đây là hình ảnh xà ngang của ngôi nhà bị
yểm
Vết nứt trên xà đã được trám lại nhưng có
hình cây kiếm
Còn một phương pháp yểm khác, rất ít được
sử dụng vì nếu dùng phương pháp yểm này thì người thợ cả phải thật cao tay.
Ngoài nghề làm mộc cho nhà thì anh ta phải giỏi cả nghề làm quan tài. Trong nhà
anh ta có 1 cỗ quan tài lớn, khi muốn yểm ngôi nhà kia thì phải mặc bộ đồ khâm
liệm người chết, chui vào quan tài mà luyện phép, khi luyện phép xong thì khi
đến nhà cần yểm thì chỉ cần họa bùa yểm vào không trung, rồi vỗ mạnh một cái,
hoàn toàn không lưu lại một dấu vết nào. Yểm bằng cách này thì cũng rất khó tìm
ra, chỉ có những thầy cao tay dùng ngải ngậm vào miệng, đốt Mẫu Lệ (vỏ sò) và
Hổ Tu (râu hổ) thì may lắm hình bùa vẽ mới hiện lên cột.
Thời gian sau này, chế độ phong kiến suy
thoái, trình độ thợ cả cũng không còn mấy người giỏi. Chính vì thế khi dựng nhà
có bao nhiêu ngón nghề là anh ta mang ra sử dụng hết. Chính vì thế gia chủ có
khi lao đao đến mấy đời.
Cách gỡ yểm thì có nhiều cách. Thực ra gọi
là gỡ thì không được chuẩn, mà là dùng phương pháp phong yểm (Phong nghĩa là
gói lại) – tức là yểm ngược lại căn nhà trên, không cho bùa cũ phát tác.
Đàn tràng tế luyện
Mâm bùa đã chuẩn bị
Thông thường thì người mới mua nhà cũ về
thì bao giờ cũng làm hẹp hơn căn nhà được mua, việc đầu tiên là cưa ngắn 2 đầu
long cốt lại, sào mực cũng được chặt đi theo kích thước mới. Các chân đá cũng
phải thay đổi cho nhau.
Còn như những nhà không biết, thì biện
pháp hóa giải cực kỳ khó khăn. Phải thực sự hiểu được nguyên lý của cách yểm
trước đó và tìm ra biện pháp khắc phục phù hợp nhất.
Như căn nhà này thì tôi dùng 1 cái cầu
bằng vải đỏ giăng từ mép hiên ngoài xuống sân. Dưới cầu dán 108 đạo bùa Lục Tự,
trên cầu rải 108 con bài tổ tôm. Đoạn lập đồ cúng ngay dưới gầm cầu vải.
Cầu chiêu binh
Mâm phát lương
Trong nhà thì khi vào thì tôi cho đóng kín
cửa lại đốt trầm cho đặc khói, một lúc thì mở hết các cửa cho thoát hết âm khí.
Tôi lập một đàn cúng trấn nhà ngay giữa
nhà. Sau khi cúng thì bắt đầu sang thỉnh thánh luyện bùa.
Đàn cúng thần linh:
Một ván in Lục Tự được đóng lên trên phía
trước bàn thờ, bốn cây cột được dán ngược 4 đạo bùa trấn.
Riêng đối với 2 cái câu đàu bị yểm thì dùng ấn Đức Thánh Trần dán đè lên, mặt sau ấn vẽ bùa ngược vào đó.
Bùa Phong yểm dán trên
câu đầu:
Bùa Áp Đảo dán ngược vào cột:
Đoạn tôi thắt ngang lưng 1 dải lụa đó, trán chít khăn đầu rìu, cầm kiếm Thất Tinh trèo lên nóc nhà, giăng 1 tấm lưới đánh cá, miệng đọc chú tay cầm kiếm bắt quyết trừ tà. Xong thì hô hấp Thiên Cang yểm trợ sái đậu thành binh khu trừ tà khí xuống cầu vải đỏ đã được giăng sẵn trước đó. Tức tốc nhảy xuống đất và dùng kiếm chém rách cái cầu vải, đặng không cho hung thần có đường lên nữa.
Cầu Thỉnh Tổ áp sát hung thần
Tôi lấy các vị: Hùng Hoàng, thần sa, chu sa, quỷ kiến sầu, đinh hương,.. Chia làm 6 phần. Căn dặn chủ nhà chôn 4 góc nhà, giữa nhà và giữa cổng. Tất cả có kèm theo 1 đạo bùa.
Xin trích một bài viết về cách dựng nhà cỗ.
....... (sưu tầm) ....
Khi phần mộc và các chất liệu đã sẵn sàng
để dựng nhà, gia chủ phải chọn một ngày tốt để làm lễ thượng lương, tức là lễ
dựng đòn nóc, tiếng địa phương gọi là đòn đôông. Lễ vật chính trên bàn thờ là
cái đòn đôông. Giữa đòn treo một lá cờ bùa Bát quái trấn trạch, trên có ghi
ngày làm lễ và tuổi của gia chủ. Phần trên của bùa có gắn hai nhánh thiên tuế
để cầu cho sự trường tồn của căn nhà. Mép dưới lá cờ có gắn 2, 4, hoặc 6 đồng
tiền cổ cầu việc tài lợi hanh thông cho chủ nha sau này. Ngoài hương hoa trà
quả, trên bàn thờ còn có một đĩa gạo, muối, hột nổ (các viên bộ nhuộm ngủ sắc
rồi rang phồng lên, chỉ để cúng tế), và bạc tiền mã của gia chủ. Người thợ cả
và các thợ khác mỗi người cũng đặt một đĩa gạo tiền trên bàn thờ để xin lộc của
lá bùa. Riêng thợ cả phải để một cái khăn đầu rìu màu đỏ trên đĩa gạo của mình,
và anh ta sẽ chít khăn này khi dựng đòn.
Khi hành lễ, gia chủ hoặc người chủ lễ phải khấn bài khấn thượng lương, với năm câu phụng thỉnh các vị tiên, tổ sư của nghề xây nhà. Một trong các vị ấy là Lô Ban, người Xuân Thu (770-475 trước CN), Trung Quốc. Ông chế ra các dụng cụ của thợ mộc như đục, cưa, thước, và được đời sau tôn làm tổ sư ngành xây dựng. Vị thứ hai không kém phần quan trọng là bà Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các mọi vật liệu trong thiên nhiên. Phải khấn để xin bà cho phép lấy cây ở rừng về làm nhà. Mỗi câu khấn thật ra có mục đích để trấn một gian hoặc chái của căn nhà. Nếu đây là nhà một gian hai chái thì bài khấn chỉ cần có ba câu đầu. Sau khi lễ xong, gia chủ phải là người đầu tiên đỡ tay vào đòn. Sau đó người thợ cả, rồi đến các người thợ sẽ đỡ giúp tay đòn. Trong trường hợp gặp ngày tốt phải làm lễ ngay mà chưa kịp có đủ ngói lợp, người thợ cả sẽ gói hai viên ngói và treo bên cạnh cờ bùa bát quái. Lá bùa này được giữ trên đòn nóc vĩnh viễn, hay ít nhất cũng đến ngày lễ tân gia.
Khi hành lễ, gia chủ hoặc người chủ lễ phải khấn bài khấn thượng lương, với năm câu phụng thỉnh các vị tiên, tổ sư của nghề xây nhà. Một trong các vị ấy là Lô Ban, người Xuân Thu (770-475 trước CN), Trung Quốc. Ông chế ra các dụng cụ của thợ mộc như đục, cưa, thước, và được đời sau tôn làm tổ sư ngành xây dựng. Vị thứ hai không kém phần quan trọng là bà Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các mọi vật liệu trong thiên nhiên. Phải khấn để xin bà cho phép lấy cây ở rừng về làm nhà. Mỗi câu khấn thật ra có mục đích để trấn một gian hoặc chái của căn nhà. Nếu đây là nhà một gian hai chái thì bài khấn chỉ cần có ba câu đầu. Sau khi lễ xong, gia chủ phải là người đầu tiên đỡ tay vào đòn. Sau đó người thợ cả, rồi đến các người thợ sẽ đỡ giúp tay đòn. Trong trường hợp gặp ngày tốt phải làm lễ ngay mà chưa kịp có đủ ngói lợp, người thợ cả sẽ gói hai viên ngói và treo bên cạnh cờ bùa bát quái. Lá bùa này được giữ trên đòn nóc vĩnh viễn, hay ít nhất cũng đến ngày lễ tân gia.
Hướng mặt tiền của căn nhà không nhất
thiết phải là hướng nam, mà nhiều khi được ấn định bằng việc xem tuổi của gia
chủ. Nhưng xem hướng nhà không quan trọng bằng việc đo lường ấn định kích thước
của nhà, và nhất là cửa, ngõ. Người Á Đông xưa dùng thước Lỗ Ban để đo đạc
trong quá trình dựng nhà. Hiện có nhiều loại thước Lỗ Ban khác nhau, thí dụ như
thước của Trung Quốc, Nhật, Lào và Việt Nam. Theo các nghệ nhân lớn tuổi trong
nghề dựng nhà xưa ở Huế, vua Gia long đã ra lệnh sửa đổi các thước Lỗ Ban cổ,
bằng cách thêm 4 phân (khoảng 2cm) vào mỗi loại thước, để cung điện được triều
Nguyễn xây sau này sẽ khác với các triều đại trước, cũng như với ngoại bang.
Có hai loại thước Lỗ Ban được dùng trong việc xây nhà ở Huế ngày xưa. Loại đầu tiên là Bát mộc xích, dài 42,7cm, để đo cột, kèo và mọi chiều dài rộng trong nhà. Loại thứ hai quan trọng hơn, là Bát mộc xích, dài 28,4cm, để đo chiều rộng cửa, ngõ. Mỗi thước Lỗ Ban được chia làm 8 cung, trong đó có 4 cung cát (tốt lành) và 4 cung hung (xấu). Mỗi cung lại chia làm 4 phần. Thí dụ như cung Phước Đức có 4 phần: Âm Đức, Thiên Sanh, Lục Hạp, Nghênh Phước.
Có hai loại thước Lỗ Ban được dùng trong việc xây nhà ở Huế ngày xưa. Loại đầu tiên là Bát mộc xích, dài 42,7cm, để đo cột, kèo và mọi chiều dài rộng trong nhà. Loại thứ hai quan trọng hơn, là Bát mộc xích, dài 28,4cm, để đo chiều rộng cửa, ngõ. Mỗi thước Lỗ Ban được chia làm 8 cung, trong đó có 4 cung cát (tốt lành) và 4 cung hung (xấu). Mỗi cung lại chia làm 4 phần. Thí dụ như cung Phước Đức có 4 phần: Âm Đức, Thiên Sanh, Lục Hạp, Nghênh Phước.
Đo cửa là điều quan trọng nhất trong việc
làm nhà. Kích thước của đất và nhà có thể vì khả năng, tài lực của gia chủ mà
thay đổi. Nhưng dù đất có nhỏ đến đâu cũng phải có cửa, và cửa được coi là linh
hồn, sinh lực của căn nhà. Người xưa tin rằng chỉ xê xịch vài phân chiều rộng
của cái cửa cũng có thể đổi hẳn vận mệnh của chủ nhà.
Một nhà 3 gian có 9 cửa ở mặt tiền, và các cửa phải được đo kỹ như nhau. Chiều rộng tương đối của mỗi cửa do gia chủ chọn được đo bắt đầu từ cạnh bên trái. Khoảng còn lại cuối cùng, không đủ một thước, sẽ được ứng vào cung, phần mà gia chủ ấn định. Thí dụ nếu chủ nhà đứng tuổi và mong trường thọ thì chiều rộng cửa sẽ được ứng vào phần Thiên Sanh của cung Phước Đức. Nếu gia chủ muốn con cái sau này thi đậu, thành đạt, thì sẽ đo cửa vào phần Đăng Khoa của cung Tài Lộc. Không đo kỹ mà để chiều rộng rơi vào các cung hung, thí dụ như cung Lục Hại, thì sau này sẽ có nguy hiểm. Cả ngõ vào nhà cũng phải được đo tương tự. Để tăng thêm phần hiệu lực của thước Lỗ Ban, người thợ cả sẽ phải khấn ba lần một bài chú Khai môn bằng chữ nho khi đo cửa, ngõ. Câu chú vẫn dùng ngày nay ở Huế do Thượng thư bộ Lễ Phan Thanh Giản sao lại và ban ra ngày 20/5 năm Tự Đức thứ 9 (1856). Hiện nay người Á châu ở khắp nơi, kể cả nước Âu Mỹ, vẫn dùng thước Lỗ Ban để ấn định chiều rộng của cửa chính khi xây nhà.
Một nhà 3 gian có 9 cửa ở mặt tiền, và các cửa phải được đo kỹ như nhau. Chiều rộng tương đối của mỗi cửa do gia chủ chọn được đo bắt đầu từ cạnh bên trái. Khoảng còn lại cuối cùng, không đủ một thước, sẽ được ứng vào cung, phần mà gia chủ ấn định. Thí dụ nếu chủ nhà đứng tuổi và mong trường thọ thì chiều rộng cửa sẽ được ứng vào phần Thiên Sanh của cung Phước Đức. Nếu gia chủ muốn con cái sau này thi đậu, thành đạt, thì sẽ đo cửa vào phần Đăng Khoa của cung Tài Lộc. Không đo kỹ mà để chiều rộng rơi vào các cung hung, thí dụ như cung Lục Hại, thì sau này sẽ có nguy hiểm. Cả ngõ vào nhà cũng phải được đo tương tự. Để tăng thêm phần hiệu lực của thước Lỗ Ban, người thợ cả sẽ phải khấn ba lần một bài chú Khai môn bằng chữ nho khi đo cửa, ngõ. Câu chú vẫn dùng ngày nay ở Huế do Thượng thư bộ Lễ Phan Thanh Giản sao lại và ban ra ngày 20/5 năm Tự Đức thứ 9 (1856). Hiện nay người Á châu ở khắp nơi, kể cả nước Âu Mỹ, vẫn dùng thước Lỗ Ban để ấn định chiều rộng của cửa chính khi xây nhà.
Tục truyền rằng trong khi xây nhà, gia chủ
phải dùng lễ để đối đãi với các thợ, nhất là thợ cả. Những người thợ nhà nghề
nhưng ác tính thủa xưa có thể dùng bùa Lỗ Ban để hại gia chủ nếu họ bị ngược
đãi. Bùa Lỗ Ban có ban hạng thượng, trung, hạ. Mỗi hạng lại có 16 cặp để yểm
giải. Người thợ xem cờ bùa thượng lương để biết rõ can, mệnh, tuổi gia chủ tuỳ
theo căn cơ cao thấp của chủ nhà mà chọn bùa. Thường thì người ta viết một lá
bùa nhỏ rồi dấu vào khe đòn tay, kèo, hay chân cột khi thuận tiện. Cũng có khi
người ta yểm thêm vào đấy một con ngựa và một cái kiếm khắn nhỏ. Nhưng người
thợ cao tay ấy chỉ cần dung tay trái vẽ bùa lên không rồi vỗ tay vào cột chính
là đủ.
Phức tạp như thế nhưng vẫn chưa xong,
người xưa còn phải rất cẩn thận khi thiết kế đất vườn chung quanh nhà. Mỗi thứ
cây đều có hàm một ý nghĩa nào đó. Thí dụ như tùng, bách là cây Tiên Lão trường
sinh, chỉ trồng ở các lăng tẩm. Ngô đồng là cây quân tử, nên trồng trước nhà.
Đào ngăn quỷ, nhưng quỳnh chiêu gọi ma. Mít lấy từ chữ Phạn paramita, (phiên âm
Hán Việt là ba - la - mật - đa), có nghĩa là giác ngộ, giải thoát, cho nên hay
trồng bên chùa. Cây vã đem lại sự không may nếu trồng gần nhà, vì “mỗi cây vả
ngả một người’. Rồi lại còn các quy cách như “đông đào tây liễu”, “cau trước
chuối sau”... rất phức tạp.
Trên đường vào trước nhà phải xây một bức
trấn phong để ngăn chặn tà ma xâm nhập. Sau đó lại có hòn giả sơn để phụ cho
trấn phong. Bên cạnh mục đích mỹ thuật trang trí, giả sơn thường được làm với
những dạng có hình thức Lão giáo, thí dụ như Tam sơn, Bồng Lai tam đảo, Ngũ
nhạc, Lý ngư vượt Vũ môn, để nếu có ác sự nào vượt được trấn phong thì sẽ bị
lạc lối và ở lại tiêu dao trong cácnơi núi non tiên cảnh này. Người xưa rất sợ
trường hợp thay vì một hòn giả sơn, vì không am hiểu họ lại có một "gò mã
ma ở” do thợ có ác ý đắp trước nhà.
Các tục lệ, tin tưởng, nghi lễ trong việc
xây nhà rường trước đây là những yếu tố hình thành của nền văn hoá Việt Nam nói
chung và Huế nói riêng. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tâm nguyện của người xưa
được đặt vào mới tạo nên một ngôi nhà rường. Tất cả có lẽ đều có mục đích để
cho người ta trân trọng, gắn bó với căn nhà hơn.
Theo Trịnh Bách (Huế xưa và nay
Theo Trịnh Bách (Huế xưa và nay
Ngày xưa,khi trong nhà có cha mẹ chết,họ
cho một mẩu mực tầu vào miệng.Đến lúc bốc mộ thì lấy ra .Khi
có sự thù oán gì họ mài mực vẽ chữ quỷ ( phải viết chữ nho mới công hiệu)...vào
cửa vào xà nhà,vào bất cứ vị trí nào thuận lợi nhưng lại kín của nhà đối
phương...thì đối phương cứ đêm đến lại có ma quỷ quấy nhiễu,nếu viết chữ quỷ
bệnh thì người nhà đối phương cứ ốm đau mà khó hóa giải,nếu chính người làm đến
hóa giải mới xong.đơn giản là hòa nước có pha Chu sa,thần sa,hùng hoàng...rồi
lamg phép gì gì đó rửa sạch là hết.Phép này bây giờ vẫn có những thầy ở các
vùng LÚA NƯỚC làm ,nhưng rất hiếm,và họ phải trả giá...Tôi và sư phụ đã phá vài
ba vụ .
Tất nhiên các việc làm trên chỉ thuận lợi
nhất cho các anh thợ mộc xuống tay yểm đảo.
Miền nam có pahí có những phép:Thư vào nhánh cây,họa bằng chân,thư phù bỏ vào miệng cá lóc...Làm cho đối phương tan nát,điên khùng,ốm đau...Miền bắc cũng có những phép làm cho lội điên khùng lội nước,nói lảm nhảm cả ngày,cởi quần áo la hét chạy...Phải nói phép này của phái bắc tông,các thầy pháp đã ra tay thì tỷ lệ đạt rất cao,tài liệu tôi không giám viết lên các diễn đàn ,sợ họa phúc khôn lường.Thư thả tôi Pót lá bùa lên cho các bạn tham khảo nhé,mỗi phép có một lá bùa,tôi chỉ đăng một lá của một phép thôi để mang tính tham khảo.
Miền nam có pahí có những phép:Thư vào nhánh cây,họa bằng chân,thư phù bỏ vào miệng cá lóc...Làm cho đối phương tan nát,điên khùng,ốm đau...Miền bắc cũng có những phép làm cho lội điên khùng lội nước,nói lảm nhảm cả ngày,cởi quần áo la hét chạy...Phải nói phép này của phái bắc tông,các thầy pháp đã ra tay thì tỷ lệ đạt rất cao,tài liệu tôi không giám viết lên các diễn đàn ,sợ họa phúc khôn lường.Thư thả tôi Pót lá bùa lên cho các bạn tham khảo nhé,mỗi phép có một lá bùa,tôi chỉ đăng một lá của một phép thôi để mang tính tham khảo.
Đây là trang đầu của cuốn sách và lá phù
làm cho cười nói lảm nhảm cả ngày.Trong cuốn sách còn có dạy cả phép hóa giải
nữa.
Pháp sư Huyền Trí.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét