Vài Bí Quyết Tử Vi Ít Người Biết-Tiến Sĩ Đằng Sơn
posted Oct
15, 2012, 8:56 PM by Joy Tuti
Sau
sáu năm rưỡi ở Á Châu, người viết học hỏi được một số bí quyết tử vi mới lạ.
Trong số tuần trước, số tuần này xin bàn đến hai cách "Thai Vượng Tướng
Binh Đào Hồng" và "Linh Xương Đà Vũ" vì đây là hai cách độc đáo
có liên quan mật thiết đến lá số của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Al Gore.
"Thai
Vượng Tướng Binh Đào Hồng" không nhất thiết là dâm cách!
Người
nghiên cứu tử vi không thể không biết đến vòng trường sinh, gồm 12 vị trí theo
thứ tự như sau: "Trường Sinh (1), Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng
(5), Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai (11), Dưỡng". Chú ý rằng nếu tính Trường
Sinh là vị trí 1 thì Vượng (tức Đế Vượng) luôn luôn ở vị trí 5, và Thai luôn
luôn xung chiếu Vượng ở vị trí 11. Đây là hai sao đầu tiên của cách "Thai
Vượng Tướng Binh Đào Hồng".
Trong
tử vi vòng Trường Sinh có nghĩa là vòng Trường Sinh của ngũ hành cục; nhưng cần
nhớ rằng ngũ hành cục chỉ là yếu tố "nhân" trong tam tài "thiên
địa nhân". Muốn đầy đủ phải tính thêm hai tài còn lại là vòng Lộc Tồn (tức
yếu tố thiên), và vòng Thái Tuế (tức yếu tố địa). Vòng Lộc Tồn gồm 12 sao theo
thứ tự: Bác Sỹ (1, cùng cung với sao Lộc Tồn), Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng
Quân (5), Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh (11), Quan
Phủ. Từ đó có thể thấy "Tướng Binh" chính là hai sao Vượng Thai của
vòng Lộc Tồn. Vượng là thế mạnh. Kẻ ở thế mạnh dễ sinh sa đọa. Thai là hiểm họa
của sự sa đọa chực chờ. Nên Vượng Thai ý nghĩa chính là cảnh bất ổn, dễ sinh
tai họa đáng tiếc.
Đào
Hồng là hai sao trong bộ tam minh. Đào Hoa là vị trí Mộc Dục của tam hợp địa. Hồng
là yếu tố quân bình lại Thái Tuế, đại biểu tình cảm nhẹ nhàng. Đào Hồng trong tử
vi đại biểu sắc (theo nghĩa sắc không của nhà phật).
Gom
lại "Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng" là một cộng hưởng dễ sinh ra điều
đáng tiếc liên quan đến "sắc". Vì thế thường ứng với họa Đào Hoa (gái
bị dụ dỗ thất tiết, trai dính vào chuyện dâm đãng bất chính, vân vân... ) Thế
nhưng cộng hưởng này đều do phụ tinh tạo thành. Phụ tinh không thể nào vượt qua
chính tinh. Trong trường hợp Al Gore chính tinh quá mạnh (Thái Âm miếu không bị
Tuần Triệt xâm phạm, lại hóa Quyền) thì làm sao sa ngã nổi? Do đó Thai Vượng Tướng
Binh Đào Hồng chỉ như những đóa hoa bên lề cuộc sống mà thôi.
"Linh
Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà" nghĩa là thế nào?
Linh
là sao Linh Tinh, thuộc Hỏa nhưng đới Kim.
Xương
là sao Văn Xương (cùng cặp với Văn Khúc), ứng với văn học nghệ thuật, thuộc
Kim.
Đà
là sao Đà La (cùng cặp với Kình Dương), sát tinh thuộc Kim.
Vũ
là sao Vũ Khúc, là vũ tinh rất bất lợi cho nhân tình, chính tinh thuộc kim.
Tính sát của Vũ Khúc nổi tiếng với câu "Vũ Khúc vi Quả Tú", Vũ Khúc đại
biểu sự cô độc.
Linh
Đà là cách tốt, Vũ Xương cũng là cách tốt. Nhưng cộng cả bốn lại thì Kim nhiều
quá. Theo thuyết Âm Dương cái gì thái quá cũng đều xấu cả, nói gì đến kim là yếu
tố sát. Vì thế "Linh Xương Đà Vũ" là cách xấu có tính sát. Nhưng Linh
Xương Đà Vũ không phải là hung cách, do đó mới luận là gặp cảnh quá bất thuận,
chỉ có tự sát mới giải quyết được mà thôi. Kim sinh thủy nên ví như tính kim
quá nặng, phải gieo mình tự tử dưới nước (thủy) mới hợp lẽ âm dương.
Linh
Xương Đà Vũ tóm lại là cách xấu. Gặp cộng hưởng này là chắc chắn bị cảnh bất xứng
ý!
-------------------------------------------------
NGŨ HÀNH NẠP ÂM
NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Ngày
xưa thời gian được ghi chép bằng cách ghép tên của 10 thìên Can va 12 Địa Chi,
Can Dương thì ghép với Chi Dương, Can Âm thì ghép với Chi Âm, và với cách ghép
như vậy thì ta sẽ có 60 tên khác nhau. Năm tháng ngày giờ đều có hành của nó,
và hành đó ngũ tóm tắt trên một bảng gọi là Lục Thập Hỏa Giáp. Cứ hai năm có
cùng một hành, nhưng khác nhau về yếu tố Âm Dương, nghĩa là một năm Âm và một
năm Dương có cùng một hành. Khi Can va Chi phối hợp với nhau thì một thứ ngũ
hành mới phát sinh gọi là ngũ Hành Nạp Âm, kết hợp Can Dương với Chi Dương, Can
Âm với chi Âm, bắt đầu từ Giáp Tí đến Qúi Hợi có 30 ngũ hành nạp âm. Cần chú ý
là với kết hợp như trên thì mỗi Chi đều có đủ ngũ hành, tùy theo Can mà có các
hành khác nhau. Ví dụ Tí thì có Giáp Tí hành Kim, Mậu Tí Hỏa, Nhâm Tí Mộc, Bính
Tí Thủy, Canh Tí Thổ. Mỗi hành đều được phân thành sáu lọai khác nhau, và sáu lọai
hành riêng biệt đó là kết quả của sự kết hợp của 12 chi với sáu Can, chứ không
kết hợp đủ mười Can, bởi vì Chi Dương thì chỉ kết hợp với Can Dương, Chi Âm thì
kết hợp với Can Âm
Theo
nhạc điệu thì giống Cung thuộc Thổ, Chủy thuộc Hỏa, Thương thuộc Kim, Vũ thuộc
Thủy, và Giốc thuộc Mộc. Đem phối hợp Can Chi từng năm với 5 âm trên, rồi lấy
hành Âm đó sinh ra làm hành năm. Mỗi năm lại bị chi phối bởi 12 luật, mỗi luật
chứa năm âm, vì vậy 5 âm thuộc 5 hành cơ bản biến thành 60 hành chi tiết của
năm hành chính. Ví dụ hai năm đầu tiên là Giáp Tí và Ất Sửu mang âm Cung thuộc
Thổ. Thổ sinh Kim, như vậy hai năm trên thuộc hành Kim, nhưng là Hải Trung Kim.
Hành đó là hành nạp âm của hai năm Giáp Tí và Ất Sửu. Việc nạp âm cho vòng Giáp
Tí phải tính tóan rất phức tạp, nên ngày nay người ta đều sử dụng bản tính toán
hành nạp Âm của năm từ xưa để lại
GIẢI THÍCH NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Để
giải thích phương pháp tìm ra hành ghi trên bảng đó, cổ nhân có giải thích như
sau: Khí Kim sinh tụ phương Khôn, tức là cung Thân trên thiên bàn, đi sang Nam
thành Hoả, qua Đông thành Mộc rồi trở về Bắc thành Thủy, rồi hoá Thổ về Trung
Ương. Hành khí trên được sinh ra do sự phối hợp giữa Âm và Dương (thành ra ta cứ
hai năm Dương và Âm thì có chung một hành, Dương ghi trước, Âm ghi sau) và theo
nguyên tắc Âm Mẫu) Dương Cha) phối hợp cách bát sinh tử (con), nghĩa là sau tám
năm thì có một hành mới được sinh ra theo qui tắc sinh ra như bên trên đã đề cập
(Kim sinh rồi thì kế đến là Hỏa được sinh, rồi Mộc, Thủy, Thổ rồi lại sinh tiếp
Kim theo chu kỳ khép kín). Ví dụ bắt đầu từ hai năm Giáp Tí (Dương) và Ất Sửu
(Âm) ta có hành Kim, thì cứ cách 6 năm Nhâm Thân va Qúi Dậu ta cũng có hành
Kim, sáu năm sau tức là năm Canh Thìn Tân Tỵ cung là hành Kim. Được ba lần hành
Kim thì đến hành Hỏa. Như vậy Mậu Tí Kỷ Sửu là Hỏa, cách 6 năm là Bính Thân
Đinh Dậu là Hỏa, cách 6 năm đến Giáp thìn Ất Tỵ là Hỏa. Sau 3 lần Hỏa thì đến Mộc.
Như vậy Nhâm Tỵ, Qúi Sửu là Mộc, 6 năm sau Canh Thân Tân Dậu là Mộc, rồi Mậu
Thìn Kỷ Tỵ là Mộc. Sau 3 lần Mộc là Thủy. Rồi sau ba lần Thủy là Thổ, tiếp tục
làm như thế ta được các hành trên bảng lục Hoa giáp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét